Nhân chầm chậm băng người về phía sau dãy trường tiểu học Định Thành, lách mình qua một ô rào bằng cây đước, nó chui ra khỏi tiếng ồn ào tan lớp của bạn bè. Đám dừa nước khua hàng ngàn ngón tay chỉa thẳng lên trời như đang vẫy chào người bạn cũ, Nhân chợt căng mắt ngó về phía bờ sông, một trái dừa nước gần bằng cái thúng đang mấp mé trên mặt nước. Nó chợt nhủ thầm: “Trái dừa nước này bự dữ à nghen. Vậy là chiều nay ông Từ sẽ có một món quà thiệt bất ngờ”.
Vừa dứt lời, Nhân chạy lại ôm lấy chiến lợi phẩm, như sợ có người lạ nào đó vô tình đi ngang qua sẽ giành mất. Cố sức vặn mạnh cuống dừa, nhưng bàn tay nhỏ của nó không đủ sức để xoay đứt trái dừa được.
Dù đã ráng hết sức nhưng Nhân cũng phải bó tay trước vẻ lì lợm của món quà bất đắt dĩ kia. Nhìn mặt nó lúc này như con gà nòi, có cái cổ và bộ ngực trụi lủi lông lúc nào cũng đỏ hỏn, vì anh Ba sáng nào cũng phun rượu vô mình nó.
Nhân ngồi bệt xuống bờ sông, ngực nó đập liên hồi, miệng thở phì phò, như ống khói tàu đò chạy từ chợ Tắc Vân tới cửa sông Gành Hào. Nó bắt đầu tỏ vẻ bực bội: “Trái dừa này lì lợm quá trời quá đất, được rồi tao sẽ dùng dao để xử tội mày, hãy đợi đấy!”. Nhân cẩn thận lấy lá dừa khô che kín trái dừa nước, rồi lần ngược lại con đường cũ…
***
- Mèn đéc ơi! Con lấy đâu trái dừa bự dữ vậy Nhân. Coi bộ dạng con kìa, sao giống con cá trốt ôm cục… gì gì đó lội qua sông quá.
- Ông Từ này nói chuyện kỳ quá hà.
Nhân chu hai môi ra như mỏ vịt, ngước mắt nhìn ông Từ tỏ vẻ giận dỗi.
- Ờ thì ông nói lại vậy. Dòm con ôm trái dừa ì ạch như ông già ôm cái gối lội qua sông.
Ông Từ cười lớn làm bộ râu trắng, dài rung rinh.
- Sao bữa nay ông vui dữ vậy. Mà trời tối rồi, ông nấu cơm chưa?
- Ông đang đợi con qua, rồi hai ông cháu đi chặt quầy dừa nước về ăn trừ bữa. Ủa, mà con lấy trái dừa này ở đâu vậy?
- Dạ… con thấy nó nằm ở gần bờ sông phía sau lưng trường học, liền chặt nó rồi rinh qua cho ông ăn lấy thảo.
- Ngoan dữ hông, vậy mà ông tính kêu con đi lấy trái dừa đó về. Thôi ông cháu mình thử coi cơm dừa có ngọt và bùi không. Mà khoan đã, con cắt rau muống chưa, bữa nay rau xanh dữ lắm!
- Dạ chưa, để lát con cắt rồi đem về luôn.
Nhân đáp tỉnh rụi, nó xăm xăm con dao rồi tiến lại quầy dừa.
- Không được, bây giờ ông sẽ phụ con cắt rau, chớ lát nữa trời tối thui thấy đâu mà cắt. Con chịu vậy không.
Giọng ông Từ nghiêm nghị, đôi mắt sáng long lanh ẩn dưới đôi chân mày điểm bạc, dài phủ xuống hai má. Nhân chợt lúng túng…
- Dạ chịu.
Nhân khẽ lẩm bẩm: “Làm ơn mà mắc oán là vậy sao trời”. Nhưng nó cũng chạy ào xuống đìa rau muống, nước mát lạnh mấp mé ngang bụng làm nó thật thích thú.
***
Ba má Nhân là giáo viên, lúc rảnh rỗi thì nuôi heo, và nhiệm vụ của nó là mỗi buổi chiều khi học sinh tan lớp, thì lội qua sông để cắt rau muống. Ngọn rau dùng để ăn, còn cuống rau cho heo mẹ, đám heo con thì chỉ biết ăn cháo và cám.
Ông Từ trông coi ngôi chùa ẩn sau rặng dừa, đất chùa rộng quá nên ông quản không hết, đành làm công quả cho mấy thầy cô giáo trồng rau. Nhân cũng không hiểu xóm Chùa này có phải mang tên từ ngôi chùa do ông Từ canh giữa hay không?
Nhưng sao gọi nhà chùa mà không thấy tượng phật, chỉ thấy tượng đức mẹ và một chiếc mắt thật to, tỏa sáng ở trên đỉnh tháp. Ánh mắt đó, từ xa xa ngoài ruộng hay đứng phía bờ sông bên kia cũng dòm thấy rõ mồn một.
Sau này Nhân mới biết đó là toà thánh của một họ đạo Cao Đài, do gia đình một địa chủ giàu có cất lên. Mấy dãy mộ của gia đình họ đã đựơc xây uy nghi và rộng lớn, bên đám ruộng phía sau toà tháp. Đó cũng nỗi lo sợ cho đám trẻ con khi đêm về, nhưng Nhân không quan tâm đến tên gọi chùa hay tháp, vì chuyện đó đâu ảnh hưởng gì tới nó. Mà mọi người trong xóm cứ ngày rằm hay mùng một tết đều đến chùa thắp nhang cúng lễ và hay gọi nơi đây là chùa, nên nghe riết cũng thành quen.
Dãy trường học và vài chục căn nhà nằm vòng quanh trên một đám đất giữa hai con sông. Con sông lớn, bờ bên kia là xã Định Hòa, cù lao này bên xã Định Thành, phía sau lưng Uỷ ban xã là con sông nhỏ mà mỗi chiều Nhân hay lội qua chùa.
Mấy năm trước lòng sông nhỏ này rất nhiều đỉa, vì người dân làm ruộng nên giữ nước ngọt và nước sông cũng vậy. Bây giờ thì mọi người đổi qua làm vuông nuôi tôm, nên người ta sẻ đất ở gần phía Uỷ ban xã để làm một ống cống bằng xi - măng cốt thép thật lớn .
***
Mùa mưa ùa về, tụi nhỏ trong xóm buồn thiu, mà người buồn nhất có lẽ là ông Từ. Vì cảnh chùa quá rộng, ngày nắng ông phải đi vòng quanh chùa để chăm cây và vườn rau đã cực, nay mưa giăng khắp nơi, nên ông không thể lội sình để thăm khu vườn thường xuyên.
Mưa rả rích suốt ngày, đám cỏ dại đua nhau mọc nhanh tua tủa khắp khu vườn, tội cho giàn đậu đũa bị cỏ phủ kín. Còn mấy luống rau bồ ngót và bụi mồng tơi thì chen chúc cùng cỏ xanh rì.
Nước sông vào mùa mưa không hiểu sao chuyển màu rất lạ. Dòng sông chia ra làm hai phần, bên đục mờ, bên trong xanh, mấy đứa nhỏ mê nhất là trò tắm sông, đứa nào lội giỏi thì thả qua bên kia sông vùng nước trong, còn Nhân chỉ dám bì bõm ở mé sông nước đục, cùng vài đứa nhỏ tuổi.
Mưa gần như suốt ngày, buổi sáng có chút nắng làm cho tụi học sinh trong xóm mừng quýnh quáng, nhưng đường vẫn còn dấy lên sình lầy. Vào lớp học được chừng hai tiếng thì mưa bắt đầu trở lại, gió cuốn mưa nghiêng ngả, bụi nước mưa bay qua cửa sổ lớp học, làm học sinh co cụm lại gần nhau cho đỡ lạnh.
Nhân giận mưa đã làm cho nó lười biếng khi chiều phải qua chùa cắt rau muống. Mưa làm nước sông lạnh tê tái, vừa đặt chân xuống nước là bao nhiêu can đảm chạy ra khỏi người nó. Nhưng sợ mấy con heo thiếu rau ăn sẽ la inh ỏi, nên sau ba ngày Nhân lại qua tìm ông Từ.
- Ủa, bữa nay ông Từ sao vậy?
Nhân bước lại gần, ông Từ nằm co ro trên tấm phản trong bếp.
- Ông đương bịnh hả?
Nó lo lắng đưa tay rờ trán ông.
- Ờ Nhân hả. Ông hổng sao đâu, tại trời trở lạnh nên bệnh phong thấp nó hành ông.
Ông Từ cố tỏ vẻ tươi cười nhìn Nhân, nhưng khuôn mặt ông nhăn nhăn khó chịu
- Để con về lấy chai dầu nóng và chút rượu thuốc của ba đem qua cho ông.
- Khỏi đi con! Ông chỉ bị đau chút xíu thôi mà.
Ông Từ gượng ngồi dậy, tấm mền mỏng tuột xuống.
- Ông bị bịnh rồi, phải nằm nghỉ cho khoẻ. Giờ con về bển đem đồ qua cho ông. Mà ông ăn gì chưa?
Nhân chu môi, nhíu mắt tỏ ra suy nghĩ, sau đó nó lấy cái niêu nhỏ và tìm khay gạo.
- Con sẽ trổ tài nấu cháo hành cho ông ăn, bảo đảm ăn xong ông sẽ khoẻ ngay.
Rồi Nhân ra sà lản nằm trên đìa nước trong xanh, cặp bên hông trái bếp để vo gạo.
***
Ông Từ đã ngủ thêm một giấc nữa. Mùi thơm của cháo hành và tía tô đã làm ông tỉnh lại. Chống tay xuống bộ ngựa, ông mau chóng nhận ra cái mền bông dày đang phủ lên người.
- Nhân chưa về sao con? Trời tối rồi đó, coi cừng ba má con đi kiếm mà không thấy.
- Hổng sao đâu ông Từ, con đã xin ba má tối nay ngủ lại đây luôn. Giờ ông gắng ngồi dậy ăn hết tô cháo cho khoẻ. Sau đó con sẽ bóp dầu nóng và rượu thuốc cho ông.
Nhân bưng tô cháo hành và tía tô đặt lên một cái đĩa, đưa cho ông Từ. Ông cầm tô rồi lấy muỗng khuấy cháo. Chợt ông ngẩng đầu nhìn Nhân, nói:
- Con ăn gì chưa?
- Dạ con ăn cơm từ hồi chiều.
- Ừ! Mà cái mền này ở đâu ra vậy.
- Dạ! Ba con biểu mang qua cho ông.
- Vậy là ông làm phiền gia đình con quá!
- Ông ăn cháo lẹ đi! Coi chừng nguội hết bây giờ.
***
Đêm, trăng sáng lờ mờ, gió lao xao ngoài bụi chuối sau bếp, xa xa gần bờ ruộng những tàu lá dừa như những ngón tay khổng lồ. Nhân trải chiếu nằm dưới nền nhà, bên cạnh là một lò lửa đã tắt, những gốc cây bình bác nằm trơ trọi.
- Á… a!
Một tiếng hét lớn vang lên từ phía bờ ruộng. Nhân giật mình ngồi nhổm dậy. Ông Từ vẫn nằm thiêm thiếp trên phản gỗ, khẽ trở mình một cách nặng nhọc và mệt mỏi.
Nhân lượm khúc củi, rón rén bước ra ngoài. Nó lom khom tiến tới gần bờ ruộng, ngang qua dìa nước, bỗng một tiếng động từ dưới nước vang lên, làm đám bông súng bập bềnh. Nhân không sợ, nhìn xuống đìa, miệng nó lẩm bẩm “Con cá lóc này bự dữ”. Nhân chợt chăm chú nhìn về phía gốc dừa, một bóng đen đang ngồi chồm hổm, dáng nguời run rẩy.
- Ai!
Nhân hét lên, tay cầm khúc củi chỉa thẳng về phía bóng đen.
- Dạ con.
Bóng người dứng dậy, thấp hơn Nhân một cái đầu.
- Mày là thằng nào, đang đêm sao lại chui vô chùa làm cái gì?
- Dạ! Con vô đây… hái dừa.
- Trời đất ơi! Ăn cắp mà còn dám nói là hái dừa hả. Mày đi với thằng nào nữa?
- Dạ! Con đi với thằng Út, nó sợ quá bỏ chạy về rồi.
- Giỏi. Còn mày ngồi đó làm gì, sao không chạy theo nó luôn đi?
Chưa dứt lời, Nhân bước tới nắm tay tên trộm.
- Ui da!
- Mày sao vậy?
- Tui bị đinh đâm.
- Đinh ở đâu mà đâm?
- Đinh ở trên cây dừa.
- Hả! Trên đó làm gì có đinh.
- Tui hổng biết, mọi bữa đâu có, vậy mà tối nay leo lên là bị đinh nó đâm, đau quá!
- Hay thiệt! Vậy là anh em mày vô đây ăn cắp đã lâu, nay bị trời quả báo. Mà sao
người mày mủ dính tùng lum vậy, cây dừa này đâu có mủ.
Nhân căng mắt nhìn tên trộm, những đốm màu đen sẫm nổi lên trên chiếc áo vá chằng chịt
- Hổng phải mủ đâu, là máu đó. Tui bị mấy cây đinh ghim vô người, đau muốn chết luôn, mới la lên rồi té xuống đất nè.
- Lạy trời, hên là mày leo thấp, chứ tuốt trên đọt cây hơn chục thước là mày té xuống tan xương.
- Hia biết tại sao ông Từ gắn đinh trên cây dừa không?
- Hả? Mày nói sao, ông Từ gắn đinh lên cây dừa?
- Còn ai trồng khoai đất này, chắc mọi bữa ông Từ thấy anh em tụi tui lấy dừa tội nghiệp không la, bữa nay dừa gần hết ổng tiếc nên mới gài đinh.
***
Ông Từ lần từng bước ra bờ ruộng, từ xa ông đã nghe Nhân đang nói chuyện. Ông lại gần, khẽ đằng hắng:
- E hèm! Chuyện gì mà nửa đêm con ra đây vậy Nhân. Con không sợ ma hả?
Nhân im lặng, ngó ông Từ trân trân, rồi không kìm được giọng, nó nói nhanh, ấm ức.
- Tại sao ông lại gài đinh lên cây dừa. Con không hiểu được ông làm vậy là do ghét tụi ăn trộm hay là chuyện mất đồ đã làm ông bực mình.
- Ông không bao giờ nghĩ sẽ đuổi hai đứa nhỏ này, thì làm sao có chuyện gài đinh hại tụi nó.
Trong khi đó, tên trộm lùi dần về phía sau Nhân rồi bỏ chạy. Nhân nhìn theo một lúc rồi quay qua ông Từ, nói.
- Trời rạng sáng rồi, con phải về đi học. Ông ráng giữ sức khoẻ.
- Con giận ông phải không?
- Dạ không, con buồn.
***
Đã gần một tuần Nhân không ghé qua chùa, mẹ hỏi “ Sao con không đi cắt rau muống cho heo ăn?”. Nó tỏ vẻ khó chịu:
- Ông Từ có công chuyện nên đi hơn một tuần mới về.
- Con nói dối. Ông Từ bị bệnh làm sao đi được. Sáng nay học trò nói với mẹ là ông Từ đã được người nhà chở về quê bằng xuồng mà.
- Mẹ nói sao? Ông Từ đã về quê?
- Ừ! Nghe nói ổng leo lên cây dừa bị té cách đây một tuần. Mấy người đi cúng chùa biết chuyện, đã báo tin cho gia đình ổng ở ấp Lung Chim ra đón về sáng nay.
Nhân chạy ra bờ sông qua chùa. Cây cối mọc um tùm phủ đầy lối đi, từ bờ sông nhìn vô khuôn viên chù thật ảm đạm, vắng vẻ. Nhân không hiểu sao nó lại giận ông Từ và bỏ mặc ông hơn tuần qua. Nó thấy mình thật là vô lý, nhưng cũng tại ông Từ đã ác ý khi không đóng cây đinh vô cây dừa.
Một mình Nhân đứng trong nhà bếp vắng hoe, chai dầu nóng và chai rượu thuốc được đặt ngay ngắn ở góc phản, nơi ông Từ thường nằm. Nhân chợt nghe tiếng bước chân và tiếng nói ồn ào phía sau đìa bông súng, nó lấy tay khui vách lá dừa ngó ra. Ba đứa con trai trạng tuổi nó đang bàn tán xôn xao.
- Tao nói mà tụi mày không nghe, giờ ổng phải bỏ chùa về nhà rồi thấy chưa.
Nhân nhận ra đó là Nhàn, con dì Tám bán quán nước ngay chân cầu khỉ nối Uỷ ban xã và đường qua chùa. Hai đứa kia tên là Nam và Minh cũng ở trong xóm Chùa này.
- Mày giỏi thiệt, vừa làm anh em tụi thằng Út không dám ăn cắp dừa, mà còn làm ông Từ bỏ đi nữa.
Thằng Minh vừa nói vừa quăng trái dừa lộn vòng.
- Nói thiệt với tụi mày nghen, tao hổng hiểu sao ông Từ vốn leo cây rất giỏi, nghe đồn ổng còn có võ khỉ nữa, vậy mà bị té khi leo lên gỡ mấy cây đinh nhỏ xíu đó. Chắc tại tụi mình đóng đinh quá chắc nên ổng nhổ hổng ra, rồi trượt chân té xuống đất. Còn má thằng Út cũng không còn dừa để bán rẻ hơn má tao.
Cả ba đứa cất tiếng cười vang thích thú.
- Im đi, tụi bay thiệt là đồ thất nhân thất đức. Nhàn! Sao mày lại bày ba cái trò độc ác như vậy được chứ .
Nhân nóng giận, mặt nó đỏ gay.
- Mày đó hả Nhân, chào công tử con ông bà thầy giáo. Vậy là mày đã biết hết chuyện của tụi tao, điều này sẽ làm mày phải hối hận.
Vừa nói dứt lời, Nhàn nhảy tới tung cú song phi cước thẳng vào Nhân. Khẽ lắc nhẹ người, Nhân vung tay gạt mạnh gót chân đối thủ, làm nó mất thăng bằng, té lăn quay xuống cỏ. Lồm cồm bò dậy, Nhàn ra hiệu cho Minh và Namcùng lao vào.
Nhân mới được anh Ba dạy cho vài thế võ đấu tay đôi, nên khi bị ba thằng cùng nhào vô một lúc, nó lúng túng và khó chống trả. Sau một hồi giáp la cà không cân xứng, Nhân bị đấm xưng mặt. Thằng Nhàn tỏ vẻ đàn anh lên giọng:
- Sợ chưa con! Bài học này sẽ giúp mày bỏ được tật nhiều chuyện giống má tao.
- Mày nói bậy, tao không nhiều chuyện như má mày. Nhưng việc làm sai quấy của tụi bay tao sẽ kể lại cho ba má nghe.
Nhân đưa tay quệt sình dính đầy mặt.
- Chuyện nhỏ, tụi tao cũng đang muốn bỏ học đây. Giỏi thì cứ méc đi!
- Ngoài ra chú Hai Hổ sẽ giúp tụi bay nhận lỗi.
- Mày dám. Nhưng cho dù mày nói cỡ nào, thì ổng cũng hổng thèm nghe đâu. Ai đời chủ tịch xã lại tin một thằng con nít như mày.
- Tin hay không kệ mày. Còn bây giờ tao thách mày dám quýnh tay đôi với tao. Ba thằng mà đánh một là hèn.
Thằng Nhàn nhíu mày tỏ ra suy nghĩ, rồi lùi vài bước, nói:
- Bữa nay tao đang bịnh, mà mày cũng mới bị quýnh đau, để khi khác tao sẽ thách đấu với mày. Đi về tụi bay.
***
Chú Hai Hổ sau khi nghe Nhân kể đầu duôi câu chuyện, liền cho hai anh du kích xã qua chùa thay chỗ ông Từ. Cũng buổi chiều đó Nhân xin chú Hổ cho theo mấy anh công an xã, đi giỏ lải vô ấp Lung Chim, thăm ông Từ.
Nhân cầm theo chai dầu nóng và chai rượu thuốc vô cho ông, tiếng máy Kole nổ “bạch … bạch”, xen lẫn giọng thì thầm của nó. Đó là những lời xin lỗi mà Nhân rất ngại khi phải ấp úng đối mặt với ông Từ…
T.B.N (Trưởng Gia đình Áo Trắng TP. HCM)
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét