Bảy câu chuyện trong một cuộc đời
Thứ bảy - 01/09/2012 02:23
Câu chuyện thứ 1: Lão Thực và công tác nhân sự Lão Thực bị công an xã gọi lên nhắc nhở vì hành vi tụ tập, nói xấu cán bộ thôn, xã. Từ trụ sở ủy ban xã về, lão cúi đầu đi lùi lũi, không thèm chào hỏi ai. Mà lão cũng chả phải chào ai trước. Lão là người cao tuổi trong làng. Gặp lão, đám trung niên, thanh niên còn phải chào trước. Qua quán bia hơi đầu làng có tiếng gọi: - Cụ Thực ơi! Vào làm vại bia cho mát đã cụ ạ! - Không…- Lão ậm ừ. ...
Sinh năm: 1956
Quê quán: Thị trấn Hoa Sơn, Lập Thạch, Vĩnh Phúc
Hiện công tác tại: Phòng Thông tấn-Báo chí quân đội
Địa chỉ: 61- Cửa Đông-Hà Nội,
ĐT: 098.6676547
_____
Tác phẩm đã xuất bản:
Ngọn gió sân chùa - Tập truyện ngắn -NXB Thanh niên 2003
Bông hồng không gai -Tập truyện ngắn -NXB Công an nhân dân 2007
Đồng tiền lá đa - Tập truyện ngắn -NXB Quân đội nhân dân 2008
Phong lan đỏ - Tập truyện ngắn -NXB Hà Nội 2010
Đẽo cày giữa…cơ quan - Tập truyện cười -NXB Quân đội nhân dân 2000
Nụ cười chiến sĩ - Tập truyện cười -NXB Quân đội nhân dân 2001
Tốn công vỗ béo - Tập truyện cười -NXB Lao động 2003
Một số truyện ngắn được tuyển chọn trong các tuyển tập khác.
Tác phẩm chưa in:
Tiểu thuyết: Trong vòng lửa – Đời hắn (Đã dăng trên VanDanViet) __________________
Tác phẩm giới thiệu:
BẢY CÂU CHUYỆN TRONG MỘT CUỘC ĐỜI
Câu chuyện thứ 1: Lão Thực và công tác nhân sự
Lão Thực bị công an xã gọi lên nhắc nhở vì hành vi tụ tập, nói xấu cán bộ thôn, xã. Từ trụ sở ủy ban xã về, lão cúi đầu đi lùi lũi, không thèm chào hỏi ai. Mà lão cũng chả phải chào ai trước. Lão là người cao tuổi trong làng. Gặp lão, đám trung niên, thanh niên còn phải chào trước.
Qua quán bia hơi đầu làng có tiếng gọi:
- Cụ Thực ơi! Vào làm vại bia cho mát đã cụ ạ!
- Không…- Lão ậm ừ.
Lão đang tức nóng sôi cả người lên đây. Bằng tuổi này rồi lão còn bị một thằng công an xã trẻ ranh dạy bảo là phải làm như thế nào để góp phần xây dựng quê hương, đất nước, giữ gìn an ninh, trật tự thôn xóm, làng xã. Nó còn cảnh cáo lão nếu vẫn có chuyện tụ họp, bàn tán về "công tác nhân sự” của xã thì lão sẽ bị cảnh cáo và thông báo trên loa truyền thanh phát đi khắp các xóm làng.
Thực ra chuyện cũng chả có gì nghiêm trọng cả.
Chả là căn nhà của lão ở cuối làng. Lão nhận thầu một khu đất hoang và cái đầm nhỏ đầy cỏ lác sát nhà. Lão cải tạo, chăm sóc mãi nên khu bãi hoang và cái đầm nhỏ cũng trở thành một trang trại khá đẹp. Khu đất hoang lão trồng cây, ươm hoa. Cái đầm nhỏ lão thả sen và nuôi cá. Mùa hè khu trang trại của lão hóa ra lại là nơi mát mẻ nhất làng. Làng bây giờ thì đã bê-tông hóa toàn bộ rồi. Nhà bê-tông, đường bê-tông, tường rào cùng bê-tông. Không còn một ngọn tre pheo, cây cối. Lúc mưa thì nước không lối thoát rác rưởi, phân người, phân súc vật trôi lềnh phềnh trên đường làng. Lúc nắng thì cả làng trở thành một cái lò bát quái, nóng như nung bởi những khối nhà cửa bê-tông lù lù đứng sát bên nhau. Nhà nào giàu thì có cái điều hòa nhiệt độ. Nhà nào nghèo thì quạt điện. Nhưng lúc mất điện thì tất cả như nhau. Mà nông thôn mùa hè thường được "ưu tiên” cắt điện dài dài. Vì thế mỗi khi mất điện và cả khi không mất điện thì khu trang trại của lão Thực cũng vẫn cứ mát mẻ. Buổi trưa nhiều người kéo nhau ra khu vườn nhà lão xin mắc nhờ cái võng để ngả lưng hưởng chút gió trời rười rượt. Thường là thế. Mỗi khi có đông người là ắt sẽ có chuyện. Bên ấm nước chè xanh của lão Thực người ta râm ran mọi chuyện. Chuyện thiên hạ nói mãi thì quay sang chuyện của làng, của xã. Lão thực vốn là người từng trải nên cũng hay góp chuyện. Tính lão hay suy ngẫm nên câu chuyện thường trở thành triết lý. Mà đã triết lý thì hay có tính răn dạy và khiến người ta liên tưởng.
Đầu tiên là ông Bứa, một hàng xóm của lão lên tiếng:
- Ông là người đọc sách, biết nhiều chuyện! Vậy theo ông một người cán bộ tốt là thế nào? Cứ nhìn vào đội ngũ cán bộ xã ta hiện nay thì thấy chán quá…
- Cán bộ tốt là phải "thực đức, thực tâm và thực tài” chỉ cần thế thôi là đủ!
Ông Bứa nhăn nhó:
- Ông nói thế thì bọn tôi biết thế nhưng cũng chả hiểu nó cụ thể ngô khoai ra làm sao cả?
Thằng Nhân, vốn là một tay thợ xây vặt quanh làng, quanh xã thì thắc mắc:
- Vậy theo cụ thì cán bộ tốt cần tụ đủ những những yếu tố nào ạ?
Lão Thực nhẩn nha:
- Con người ta "thực đức” tức là có cái đạo đức thực sự thì phẩm chất tư cách tốt, sống mô phạm, hài hòa. Cái đức giúp cho con người ta có uy tín, nhận được sự kính phục. Còn "thực tâm” là tấm lòng, là sự nhiệt tình đối với công việc, đối với con người. Nhưng quan trọng nhất của người cán bộ còn phải là "thực tài”. Có tài thì mới có cán bộ giỏi. Trong cuộc sống cái "đức” thường đi liền với cái "tâm” nhưng chưa chắc đã đi cùng với cái "tài”. Cán bộ mà chỉ có đức, có tâm thì làm việc gì cũng khó. Phần đông cán bộ ta chỉ có hai yếu tố này nên chính quyền thì tốt nhưng công việc thì trì trệ, không chạy. Cán bộ muốn toàn diện phải có "thực tài”. Người thực tài mà lại thực đức, thực tâm thì là cán bộ giỏi, dân mến, dân tin. Loại này hiếm lắm. Nếu cán bộ chỉ có "thực tài” mà chẳng có "thực đức” và "thực tâm” thì dẫn đến kiêu căng, tự phụ, coi thường người khác. Cuối cùng cũng sẽ dẫn đến công thần chia rẽ, mất đoàn kết…
- Vậy thực trạng cán bộ thôn, xã ta hiện nay như thế nào ạ?
Một ông khác lên tiếng hỏi. Lão Thực không trả lời. Lão không muốn liên hệ quá gần. Lão chỉ cười cười và cầm chén nước chè tươi xoay xoay trên tay. Thằng thợ xây vặt lên tiếng:
- Cụ ấy đã nói rõ như thế thì các bác cứ so vào khắc rõ, khắc biết ai là người như thế nào chứ!
- Đúng đúng! Tiêu chuẩn đánh giá của bác Thực rõ ràng đến thế còn gì nữa?
- Vậy thì…- Thằng Nhân nói như đinh đóng cột:- Ông Quy, bí thư đảng ủy xã "thực tâm”, "thực đức” nhưng không "thực tài”. Chị Thân, phó chủ tịch xã cũng thế. Còn ông Tấn, chủ tịch có "thực tài” nhưng không có "thực đức”, "thực tâm”. Cán bộ xã ta đúng là được mặt này, hỏng mặt kia… He… he… thảo nào mà xã ta luôn luôn trì trệ, bí bét?
Ông Bứa vẫn thắc mắc:
- Nhưng có người tôi thấy so vào thì cả ba tiêu chuẩn "thực đức”, "thực tâm”, "thực tài” đều chả có dính dáng một tý ti gì mà họ vẫn lên làm cán bộ được đấy thôi!
- Ai?
- Thì ông Đạt, phó chủ tịch kiêm công an xã, ông Chinh, cán bộ địa chính, bà Liên, cán bộ quản lý thị trường, thằng Xuyên, bí thư đoàn xã…
- Ừ nhỉ! Mấy người này chả có đức, chả có tâm lại bất tài vậy họ làm được cán bộ là vì cái gì nhỉ?
Mọi người xôn xao hỏi nhau. Họ nhìn lão Thực, người mà họ vẫn coi là sáng suốt, thông tuệ nhất làng chờ lão ta giải thích. Lão Thực vẫn lơ lơ im lặng. Tay lão vẫn xoay xoay chén nước chè như đang muốn biết vòng xoay của nước ra sao? Giữa lúc mọi người đang sốt ruột thì con vợ thằng thợ xây te tái xông vào chỗ mọi người réo tên chồng lên như hát hay rồi bảo nó đưa tiền để nộp tiền điện tháng này. Thằng Nhân rút ví lấy tiền đưa cho vợ. Khi con vợ cầm nắm tiền chạy biến đi rồi, thằng Nhân như chợt nghĩ ra, nó rút thêm ra một tờ giấy bạc 500 ngàn đồng đưa lên mắt ngắm nghía. Đoạn nó quay sang lão Thực phất phất tờ giấy bạc có ý hỏi. Lão Thực gật gật cái đầu. Thằng Nhân vẻ đắc chí kết luận:
- Loại cán bộ không có "thực đức”, "thực tâm”, "thực tài” thì chắc là phải có "thực tiền”. Các ông, các bà ấy làm cán bộ là nhờ có điều thứ tư ấy đấy! He… he… he…
- Đúng… đúng… bây giờ cứ có tiền thì mua quan, mua chức được ngay. Những cán bộ mà không có đức, có tâm, có tài thì dứt khoát là phải có tiền. Họ mua chức tước bằng tiền đấy. Vậy loại cán bộ này khi làm việc thì sẽ thế nào ạ?
Lúc này, lão Thực mới lên tiếng:
- Thì… sẽ sinh ra nạn tham nhũng!
- Đúng… đúng… đúng…
Câu chuyện nhân sự trong vườn giữa lão Thực và các nông dân làng Đông buổi trưa hôm ấy không hiểu sao lại đến tai cán bộ xã. Lão Thực đã bị triệu tập lên trụ sở ủy ban xã để nhắc nhở là vì thế.
Câu chuyện thứ 2: Lão Thực và lịch sử
Sau lần lão Thực bị triệu tập lên trụ sở uỷ ban xã cảnh cáo vì tội dám bàn luận về "công tác nhân sự” thì khu vườn của lão cũng trầm lắng hẳn đi. Các nông dân trong làng vẫn đến mắc nhờ võng trong vườn cây râm mát của lão Thực để hóng gió trưa hè. Nhưng họ không dám sôi nổi bàn chuyện nhân sự của xã nữa. Mỗi người đem võng đến đều cầm theo một tờ báo, một cuốn sách, thậm chí cả sách giáo khoa của trẻ con để đọc.
Đang nằm đọc sách ở góc vườn chợt thằng Nhân-thợ xây vặt quanh làng, quanh xã kêu lên vẻ ngạc nhiên:
- Cụ Thực ơi! Trong cuốn sách này có đoạn viết về cụ đấy!
Lập tức mọi người nhốn nháo cả lên. Lão thực quanh năm làm vườn, cả tháng chăn trâu, suốt ngày nuôi cá mà lại có tên được nêu trong sách cơ à! Lạ nhỉ?
Họ vội xúm đến chỗ thằng thợ xây. Thằng Nhân đang cầm trên tay một cuốn sách in rất đẹp. Nó đọc to lên cho mọi người cùng nghe đoạn viết về lão Thực: "Mùa đông năm 1952, bọn địch ở đồn phố Miễu nống ra càn quét khủng bố nhân dân các vùng ven sông Đáy. Đội du kích xã Quan Sơn đã phối hợp cùng bộ đội địa phương dũng cảm chặn đánh, bẻ gãy đợt càn quét của bọn địch, tiêu diệt 37 tên, thu 35 súng các loại, bắt sống bốn tên tù binh. Tên đồn trưởng ác ôn Lê Thuận cũng bị bắt sống. Nhưng do sơ xuất, mất cảnh giác trên đường dẫn giải nó, chiến sĩ du kích Nguyễn Công Thực, người làng Đông đã để nó chạy thoát. Nó tiếp tục gây tội ác chống lại nhân dân. Đội du kích xã đã đột nhập vào tận đồn phố Miễu để xử tử tên đồn trưởng ác ôn ấy”.
Đọc xong đoạn trên, thằng Nhân hỏi lão Thực:
- Có đúng là trong sách viết về cụ không ạ?
Lão Thực cũng ngạc nhiên. Nhân vật chiến sĩ du kích Nguyễn Công Thực ở xóm Đông chính xác là lão rồi. Nhưng sự việc để tên đồn trưởng ác ôn trốn thoát thì lại khác. Ngày ấy không phải là lão để tên đồn trưởng trốn thoát. Lão đã dẫn giải được nó về đến vị trí tập kết. Đã bàn giao nó cho ông Trần Văn Đàn (cũng là một du kích) rồi cơ mà. Trong khi lão đang giao lại vũ khí của tên đồn trưởng cho ông Đàn thì tên này chạy trốn mất. Nó lao xuống dòng sông Đáy lặn mất tăm. Chuyện sơ xuất ấy phải do ông Đàn chịu trách nhiệm chứ sao lại đổ cho lão. Chính ông Đàn là người đã tuỳ tiện cởi trói cho tên đồn trưởng đi tiểu nên nó mới có cơ hội chạy trốn. Lão Thực cầm cuốn sách của thằng Nhân đang đọc lên xem. Đó là cuốn lịch sử truyền thống của xã Quan Sơn.
Thằng Nhân nói thêm:
- Hôm qua sửa lại nền cái nhà bếp cho xã, thấy có mấy cuốn sách vứt lăn lóc ở góc bếp dùng để nhóm lửa cháu liền nhặt một cuốn về đọc. Không ngờ lại vớ trúng cuốn lịch sử của xã ta có đoạn viết về cụ. Thì ra thời trai trẻ cụ đã từng là một chiến sĩ du kích dũng cảm… Nhưng sao cụ lại để tên đồn trưởng ấy nó trốn thoát hả cụ?
Lão Thực im lặng. Hoá ra họ đã bóp méo cả lịch sử. Lão là nhân chứng còn sống rành rành đây mà khi viết họ không hề đến tham khảo. Lão Thực thấy buồn. Lão chợt nhớ lại những ngày trai trẻ ở trong đội du kích của xã. Lão là một chiến sĩ dũng cảm. Lão từng cải trang thành một người đánh dậm để đến gần đồn địch, gài mìn ở ngay cổng đồn giết chết một tên quan ba Pháp và ba thằng lính khố xanh. Lão cũng đã từng vật nhau rồi bắt sống một thằng lính trên bãi ngô khi nó mò ra tăm gái. Sau khi ông Đàn để tên đồn trưởng Lê Thuận trốn thoát, nó tiếp tục tra tấn giết hại nhân dân, chính lão đã đóng giả thành một người đi buôn vào tận đồn và hạ sát nó. Tại sao chi tiết này không có nêu trong cuốn lịch sử của xã? Mà họ chỉ viết chung chung là "Đội du kích xã đã đột nhập vào tận đồn phố Miễu để xử tử tên đồn trưởng ác ôn ấy”.
Lão Thực kể lại chuyện thời trai trẻ của mình cho mọi người nghe. Tất cả đều im lặng suy nghĩ. Chợt thằng thợ xây lại kêu lên:
- Cháu hiểu vì sao họ lại viết như thế rồi!- Nói xong nó ớ người ra rồi im bặt.
- Vì sao?- Ông Bứa càu nhàu:- Có gì thì mày nói toẹt mẹ nó ra đi! Cứ ấm a ấm ớ, bực cả mình!
Thằng Nhân tái mặt. Nó nghĩ đến chuyện lão Thực bị công an xã triệu tập lên trụ sở cảnh cáo nên cứ ú ớ mãi trong cổ họng không thốt lên lời. Đến khi mọi người giải tán hết về để đi làm đồng buổi chiều, chỉ còn lão Thực và ông Bứa, thằng Nhân mới dám nói. Nó bảo:
- Cụ với ông nghe cháu nói đây! Cái ông du kích tên là Đàn mà cụ Thực vừa kể lại ấy chính là chú ruột của chủ tịch xã ta đấy!
Lão Thực cũng ớ người chợt nhớ ra điều thằng Nhân nói. Ông Đàn này sau đó do lo sợ bọn địch khủng bố còn rời bỏ đội du kích trốn lên tận vùng Định Hóa, Tuyên Quang- nơi vợ con ông ta tản cư rồi sinh sống luôn ở trên ấy, hoà bình cũng không dám trở về làng vì xấu hổ. Anh chủ tịch xã đương nhiệm là cháu ông Đàn lại làm trưởng ban biên soạn cuốn lịch sử xã. Anh ta đã viết sai cả sự thật của lịch sử xã nhà cũng là chuyện chả có gì khó hiểu. Lão Thực càng buồn. Lịch sử bị sai lệch thế hệ sau con cháu sẽ nhận thức sai lệch hết. Lão xem hết cuốn lịch sử ấy không thấy nhắc chuyện lão đặt mìn giết chết thằng quan ba Pháp và mấy thằng nguỵ binh. Họ chỉ ghi chung chung chuyện diệt tên sĩ quan Pháp ấy vào số lượng quân địch bị đội du kích xã tiêu diệt trong chín năm kháng chiến. Trong khi đó đọc xong cuốn lịch sử của xã thì cảm thấy nếu như không có anh em, họ hàng của ông chủ tịch xã đương nhiệm thì xã Quan Sơn này chả có lịch sử gì. Đoán được suy nghĩ của lão Thực, thằng Nhân an ủi:
- Thôi đừng buồn cụ ạ! Lịch sử dân tộc, lịch sử đất nước mà họ còn viết sai, làm xô lệch nữa là lịch sử của cấp xã phường!
- Mày nói chí phải!- Ông Bứa gật gù. Chợt ông Bứa lại hỏi lão Thực:
- Bác là một du kích chiến đấu dũng cảm, có nhiều thành tích trong kháng chiến, lại là người thông tuệ… thế mà sao không được bổ nhiệm, đề bạt giữ chức vụ lãnh đạo gì nhỉ? Người như bác lẽ ra phải làm đến trung ương uỷ viên ấy chứ?
Lão Thực xua xua tay:
- Ấy! Đã bảo là thôi không bàn đến "công tác nhân sự” nữa cơ mà?
Ông Bứa im bặt. Thằng Nhân đứng dậy phủi đít quần bảo:
- Làm quan có số! Con người ngay thẳng, cương trực như cụ Thực làm quan thế quái nào được chứ? Cụ mà làm quan thì để bọn họ làm gì… Thôi không nên bàn về "công tác nhân sự” nữa kẻo lại bị xã gọi lên cảnh cáo nhắc nhở, phiền lắm. Cháu về đi làm đây. Đang xây dở cái nhà tắm nóng lạnh cho xã. Các vị cán bộ xã bây giờ sau khi đánh cầu lông, chơi ten-nít về không có "nóng-lạnh” là không tắm nổi đâu!
Nói xong nó đi mất. Ông Bứa cũng đi thẳng luôn ra phía cánh đồng. Ông ra xem ruộng ngô nhà mình trồng loại "giống mới” do cán bộ khuyến nông xã đem về bán cho bà con nông dân sao mãi không có bắp. Loại ngô này hình như là giống "ngô không hạt”…
Câu chuyện thứ 3: Lão Thực và tình yêu
Từ hôm đọc cuốn lịch sử xã Quan Sơn khiến lão Thực cứ thấy trong lòng thấp thỏm, bất an. Không phải vì lão suy nghĩ về những đoạn sai lệch trong cuốn lịch sử. Cũng không phải lão buồn vì người ta đã quên hết công lao của những người như lão trong cuộc kháng chiến chống Pháp trường kỳ. Đó chỉ là chuyện vặt trong cuộc đời mỗi con người. Công lao cũng chả là gì, sự sống mới là vĩnh cửu. Thế hệ lão đã bao nhiêu người đang nằm dưới cỏ rồi.
Chiều nay lão Thực không ra hồ cắt cỏ nuôi cá nữa. Lão mặc một bộ quần áo tươm tất rồi đi ra cổng. Một thằng thanh niên đang ngồi ở cái quán đầu làng gọi vọng ra:
- Cụ Thực ơi! Cụ lại lên xã để bàn về "công tác nhân sự” đấy à? Mời cụ vào làm chén nước chè đã ạ!
Lão Thực lẩm bẩm:
- Chỉ được cái bố láo! Tao già rồi còn nhân sự, nhân xiếc gì nữa!
Có tiếng cười nhộn nhạo trong quán. Một thằng tếu táo: "Cụ cứ cách chức mẹ cái bọn chuyên ăn chặn, bớt xén tiền đền bù giải phóng mặt bằng khu công nghiệp đi cho dân làng nhờ cụ nhá!”. Lão Thực không thèm nói chuyện với bọn ranh con vô công rồi nghề. Tuy thế, lão vẫn rẽ vào quán. Mấy thằng thanh niên vội ngồi dịch ra nhường chỗ cho lão. Nhưng lão không uống nước. Lão mua một thẻ hương rồi đi luôn. Bọn thanh niên ngạc nhiên. Mấy thằng nháy nhau lập tức bám theo chân lão.
Lão Thực đi về khu nghĩa trang của xã. Đến ngôi mộ tận góc nghĩa địa lão dừng lại. Lão xoè diêm đốt hương cắm lên ngôi mộ. Lão nhổ mấy búi cỏ mọc cao trên nấm mộ. Đoạn lão rì rầm khấn vái. Khi lão quay về thì bọn thanh niên nấp ở các ngôi mộ xung quanh bèn ập đến. Chúng đọc dòng chữ ghi trên bia mộ: "Vũ Thị Thoa, sinh năm…, hy sinh ngày 13 tháng 3 năm 1953”. Bọn chúng thắc mắc hỏi nhau: "Tại sao thế nhỉ! Hy sinh tức là liệt sĩ. Nếu bà Thoa mà là liệt sĩ thì phải chôn trong nghĩa trang liệt sĩ chứ? Tại sao lại chôn ở nghĩa địa nhân dân thế này?". Bọn chúng không thể hiểu nguyên nhân ra sao. Chỉ có lão Thực là rõ mọi chuyện. Câu chuyện của hơn năm mươi năm trước lại hiện về rất rõ trong tâm trí lão.
Ngày ấy, cô Thoa là một nữ du kích xinh đẹp. Cô và anh Thực (tức lão Thực bây giờ) có tình ý với nhau. Họ cứ như đôi chim cu lúc nào cũng quấn quýt bên nhau, khi đi gài mìn trên quốc lộ 2, khi đi lên chiến khu Sơn Dương nhận súng. Họ quả là đẹp đôi. Nhưng việc một nữ chiến sĩ xinh đẹp yêu một anh bần cố nông trong đội du kích đều được cả đội vun vào thì anh đội trưởng lại thấy khó chịu. Anh đội trưởng đội du kích cũng bị cô chiến sĩ xinh đẹp hút mất hồn. Thế nhưng, tình yêu vẫn có những lối đi riêng của nó. Kẻ đẹp trai, lại có chức vụ chưa chắc đã có được tình yêu đẹp. Anh đội trưởng đội du kích vô cùng bực bội và tự ái khi thấy cô nữ du kích xinh đẹp cứ xoắn xuýt bên anh Thực mồ côi, nghèo khó. Từ đó, anh đội trưởng càng đâm ra ganh ghét người chiến sĩ dũng cảm của mình. Không biết là vô tình hay cố ý, anh đội trưởng thường giao cho chiến sĩ Thực nhiều nhiệm vụ khó khăn, nguy hiểm, dễ chạm với bọn địch phục kích. Ngày ấy, sau khi đồn địch ở phố Miễu bị quân ta san phẳng, bọn giặc Pháp phải rút sang bên kia sông Đáy. Khu vực xã Quan Sơn trở thành vùng giáp gianh vùng Tề, cũng là vùng bọn địch hay vượt sông sang để phục kích bắt cóc cán bộ, bắn giết dân thường. Anh du kích Thực nhiều lần được đội trưởng đội du kích giao nhiệm vụ cải trang, vượt sông đột nhập vào vùng Tề để bắt liên lạc với cơ sở của ta hoặc thi hành mệnh lệnh xử tử những tên Việt gian bán nước. Vốn là một người liều lĩnh, dũng cảm lại vô tư nên anh du kích Nguyễn Công Thực chỉ nghĩ là cấp trên tin tưởng, thử thách mình vì anh đang là một đảng viên mới. Anh không hề biết là có một ý khác trong những nhiệm vụ mà người đội trưởng đã giao cho mình.
Một hôm, anh du kích Nguyễn Công Thực được giao nhiệm vụ đặc biệt là vượt sông gặp một cơ sở bí mật tại chợ gốc gạo ven đê để nhận tài liệu từ vùng Tề gửi ra. Anh Thực không được mang theo vũ khí để nếu bị bọn địch khám xét thì cứ mạo nhận là người đi buôn trâu.
Anh Thực vượt sông khi trời còn chưa sáng hẳn. Tháng ba, nước sông Đáy còn rất cạn. Nhiều chỗ nước sâu không quá đầu gối. Khi anh Thực vừa đi thì cô Thoa biết chuyện. Cô vội vã gặp anh đội trưởng đội du kích hỏi:
- Theo tin từ vùng tạm chiếm bên kia sông báo ra là bọn địch đang rải quân phục kích dọc bên bờ sông, cơ sở của ta sẽ không thể ra chỗ hẹn được tại sao đội trưởng vẫn giao nhiệm vụ cho anh Thực sang sông?
Anh đội trưởng du kích lúng túng:
- Chuyện này anh cũng vừa mới biết!
- Không đúng! Việc này ngay từ tối hôm qua anh đã biết rồi!
- Anh… anh…
Cô Thoa gằn giọng:
- Anh cố ý để anh ấy lọt vào ổ phục kích của bọn địch phải không?
Cô Thoa nói xong vội chạy đi ngay. Anh đội trưởng hốt hoảng gọi với theo:
- Không phải thế đâu… Thoa… anh bảo này… em định đi đâu đấy?
Trong khi hai người đang tranh cãi với nhau thì du kích Thực đã bí mật vượt qua sông. Anh nằm ép vào một bụi cỏ sát mép nước quan sát để tìm cách vượt qua bãi ngô lên sườn đê. "Trời đã gần sáng rõ, phải lên được sườn đê, thay quần áo khô trà trộn vào đám người đi chợ mới che mắt được bọn địch”- Anh du kích trẻ Nguyễn Công Thực nghĩ vậy. Giữa lúc anh chuẩn bị chạy lên bờ đê thì phía dưới hạ lưu có tiếng súng nổ. Anh du kích Thực vội quay lại nhìn. Anh vô cùng sửng sốt thấy một người mặc áo trắng vừa lao sang sông vừa bắn loạn xạ. Khi người đó chạy ra đến giữa dòng sông cạn thì anh Thực hoảng hốt nhận ra đó chính là Thoa.
Tại sao Thoa lại lao sang sông và bắn chỉ thiên bừa bãi như vậy nhỉ! Anh du kích Thực chưa hiểu ra sao thì trên bờ đê tiếng súng của bọn địch rộ lên bắn xuống dữ dội. Ngay trong bãi ngô trước mặt anh cũng có tiếng súng vang lên. Một toán địch lao qua ngay trước mặt anh vừa bắn chặn vừa chạy xuống đón đầu Thoa. Thoa bị trúng đạn khi vừa nhào đến bờ sông. Đến lúc này thì anh du kích Nguyễn Công Thực đã hiểu. Thoa đã quyết định nổ súng và chết để cứu anh khỏi lọt vào ổ phục kích của bọn giặc. Anh du kích cắn môi đến bật máu. Trong tay anh không có một thứ vũ khí gì để chi viện cho Thoa. Nhìn thấy bọn giặc lôi xác người con gái chạy ngược lên phía sườn đê anh chỉ muốn bật dậy lao vào bọn chúng. Nhưng không có vũ khí gì trong tay anh chưa đến được chỗ bọn chúng thì đã bị tiêu diệt rồi. Thoa đã hy sinh để cứu anh, anh không thể chết vô ích thế.
Bọn địch lột hết quần áo rồi treo xác Thoa lên cành cây gạo chỗ dốc đê. Từ chỗ nấp của mình, chiến sĩ Thực nhìn rất rõ những vệt máu chảy thành vũng xuống mặt phù sa. Màu máu của người nữ chiến sĩ đỏ như màu hoa gạo trên cây.
Quay về được chỗ đội du kích đang tập kết sát bờ sông, Nguyễn Công Thực vội đi tìm đội trưởng. Anh định túm cổ áo đập cho hắn một báng súng. Nhưng nghĩ đến chuyện xác Thoa còn đang bị treo trên cây gạo bên kia sông anh cố nhịn. Anh bàn với đội tìm cách đưa Thoa về. Cả đội đều lúng túng. Không ai nghĩ ra cách nào để lấy được xác người nữ du kích đang bị treo trên cây gạo bên kia sông. Bọn địch chắc chắn sẽ phục kích xung quanh gốc cây để đợi quân ta đến lấy xác đồng đội. Khi đội trưởng vẫn còn bàng hoàng, lo sợ vì chuyện đã xảy ra thì anh du kích Nguyễn Công Thực lên tiếng:
- Đêm nay tôi sẽ sang sông trước. Khi nghe có tiếng nổ lớn ở phía đồn Và trên bờ đê bên kia thì một tổ nhanh chóng vượt sông sang đưa cô Thoa về. Lúc đó không còn sợ có phục kích nữa vì bọn địch sẽ phải co cụm về vì nghĩ ta công đồn.
Nói xong, chẳng chờ đội trưởng cho phép, anh Thực đeo súng và ôm khối bộc phá lớn đi luôn. Trong đêm ấy, Nguyễn Công Thực đã vượt sông ở nơi mà bọn địch không ngờ nhất. Anh tiếp cận và đặt được khối bộc phá ở cổng đồn Và rồi điểm hoả. Khi tiếng nổ lớn vang lên khiến bọn địch trong đồn hoảng hốt bắn ra xung quanh như vãi đạn. Toán địch đang phục kích chỗ gốc cây gạo cũng vội vã rút ngay về đồn để cố thủ. Khi Nguyễn Công Thực bò ra đến mép nước thì gặp ba du kích đã đem được xác cô Thoa ra đến sông. Họ đưa Thoa sang bên kia bờ và dùng nước sông Đáy trong mát tắm rửa cho cô. Cô được chôn cất trên một mỏm đồi đầy hoa sim tím.
Sau cái chết của Thoa, cấp trên tiến hành điều tra vụ việc. Tay đội trưởng đội du kích bị điều lên chiến khu làm việc khác. Nguyễn Công Thực cũng bị kỷ luật vì tội tự ý mang bộc phá sang đánh sập cổng đồn Và, khiến bọn địch đề phòng, tăng cường phòng thủ, suýt nữa làm hỏng kế hoạch trừ gian, phá Tề của ta. Riêng cô Thoa tự ý mang súng lao sang bên kia sông bắn chỉ thiên loạn xạ cũng là một hành động không có trong kế hoạch tác chiến của đội du kích. Việc Thoa bị bọn địch bắn chết trong tình huống ấy khiến cô không được công nhận ngay là liệt sĩ. Mãi sau này, khi xem xét lại cô mới được truy nhận là liệt sĩ thì mộ đã chôn gần mộ mẹ ở nghĩa địa nhân dân. Ông bố quyết định không đưa cô vào nghĩa trang liệt sĩ mà để Thoa mãi được nằm cạnh người mẹ yêu quý của mình.
Còn anh đội trưởng đội du kích ngày ấy sau một thời gian lên chiến khu nhận công tác khác, anh ta lại quay về xã Quan Sơn. Khi trở về, anh ta vẫn là một đội trưởng. Song là đội trưởng đội cải cách ruộng đất. Nhưng đó là câu chuyện "Lão Thực và cải cách ruộng đất” phần sau mới kể đến.
Câu chuyện thứ 4: Lão Thực và cải cách ruộng đất
Ngày ấy, sau cái chết của cô Thoa, lão Thực đâm ra chán nản. Nhiệm vụ phân công lão vẫn hoàn thành nhưng không hăng hái chiến đấu như trước nữa. Lão còn bị kiểm điểm vì một chuyện không đâu. Đó là việc đã bắn chết một tên địch mà lẽ ra có thể bắt sống nó để khai thác tin tức.
Hôm đó, phát hiện ra có một toán địch vượt sông Đáy ra vùng tự do của ta để trinh sát, đội du kích được lệnh chặn đánh tiêu diệt và bắt sống tù binh địch. Toán biệt kích địch thâm nhập vào làng Tích Phổ ở sát bờ sông. Dân làng Tích Phổ đã đi tản cư triệt để. Làng gần như vườn không, nhà trống, chỉ có các đội viên đội du kích của xã qua lại hoạt động mà chủ yếu là ban đêm. Ban ngày máy bay bà già của bọn Pháp hay bay vè vè dọc theo bờ sông, chỉ cần phát hiện có bóng người trong làng là chúng lập tức bắn rốc-két xuống ngay. Toán địch mò vào làng bị du kích chặn đánh. Một thằng bị bắn chết tại chỗ, hai thằng khác tháo chạy ra phía bờ sông. Một tên nhào được xuống sông thoát thân. Một tên chạy vào bãi ngô chỗ lão Thực được phân công phục kích đón lõng. Lão Thực lao ra chặn ngang đường rút của tên địch. Khi thấy lão bất ngờ xuất hiện, nòng súng của lão dí sát ngực mình tên giặc hoảng hốt vội giơ tay lên. Lão Thực chợt nhận ra một khuôn mặt quen quen. Khi lão xông đến thì đạp trúng một quả bí ngô nên bị trượt chân loạng choạng. Tên giặc thừa cơ bỏ chạy. Lão đuổi theo sát sau lưng nó. Lẽ ra vẫn có thể bắt sống tên biệt kích thì lão lại nổ súng. Viên đạn găm thẳng vào lưng tên giặc xuyên ra phía ngực trái. Nó ngã úp mặt xuống rãnh ngô. Lão lật nó lên nhìn. Quả là không sai. Nó chính là cái tên đã lôi xác Thoa từ mép sông lên treo trên cành cây gạo chỗ dốc đê. Vết sẹo dài trên mặt nó lão không thể quên.
Lão Thực bị kiểm điểm vì không hoàn thành nhiệm vụ bắt sống tù binh. Sau bận ấy, đội du kích không giao nhiệm vụ gì cho lão nữa. Lão như một người thừa ở trong đội. Lão lang thang đi bẫy chim hoặc lần xuống tận mép sông đặt lờ bắt tôm cá. Nhưng chim, tôm cá của lão đem về anh chị em trong đội du kích cũng không ăn. Họ ngại vì không muốn dính dáng đến một kẻ chậm tiến, một người đang có vấn đề như lão. Đầu năm 1954, khi thế tổng tiến công Đông Xuân 1953-1954 sôi sùng sục. Hình như ngày kháng chiến thắng lợi sắp đến gần. Trong đội du kích nhiều người được đưa lên chiến khu tham gia quân chủ lực. Chị em phụ nữ thì xung phong đi dân công hỏa tuyến lên mặt trận Điện Biên Phủ. Lão cũng xung phong vào bộ đội ra trận nhưng chờ mãi không thấy thượng cấp nói gì.
Một buổi tối nhá nhem nhọ mặt người, lão Thực được liên lạc của đội du kích gọi lên nhà chỉ huy gấp. Nghĩ mình được cấp trên giao nhiệm vụ, lão vội vã đeo súng đi ngay.
Căn nhà gỗ nhỏ nép vào vách đá chân núi Mả Voi là nơi vẫn đặt sở chỉ huy của đội du kích. Trong nhà đã có mấy người đang ngồi quanh một ngọn đèn dầu cháy leo lét bằng hạt đỗ. Ánh sáng chập chờn của ngọn đèn không đủ soi rõ mặt người, chỉ có những cái bóng của họ là in rõ trên vách thành những hình thù méo mó, kỳ dị. Lão vừa bước vào cửa thì anh Thạo, đội trưởng đội du kích bảo:
- Đồng chí Thực ngồi xuống đi!
Lão ngồi xuống một cái ghế đẩu còn trống đối diện với mấy người đến trước. Lại là tiếng anh đội trưởng du kích:
- Bây giờ chúng ta bắt đầu vào việc! Kính mời anh Bồi phát biểu!
Nghe anh đội trưởng nói vậy, lão Thực giật mình. Lão căng mắt ra nhìn. Ngồi trước mặt lão chính là Hà Văn Bồi- người đội trưởng đội du kích cũ. Tại sao anh ta lại về đây nhỉ? Anh ta đã được điều lên chiến khu nhận công tác khác sau vụ cô Thoa bị địch giết rồi cơ¬ mà. Hình như chợt nhận ra là chưa nói đầy đủ rõ ràng, anh Thạo lại đứng dậy nói thêm:
- À quên! Chưa nói rõ! Xin giới thiệu với mọi người, anh Bồi được cấp trên biệt phái về xã ta để làm công tác phát động quần chúng. Anh Bồi bây giờ là đội trưởng đội cải cách ruộng đất. Hôm nay, anh Bồi sẽ gặp để "bồi dưỡng” các nhân cốt chuẩn bị cho đợt đấu tố sắp tới. Chú Thực, cô Tẻo, bà Mùa đều là những bần cố nông, ba bốn đời nghèo khổ, chuyên đi làm thuê, làm mướn nên chính là tầng lớp cốt cán, tuyệt đối tin cậy đấy.
Thì ra là vậy. Cải cách ruộng đất là làm gì! Lão Thực thấy băn khoăn, thắc mắc. Lão suy đoán chắc là họ sẽ tịch thu ruộng của địa chủ, phú hào chia cho những bọn bần cố nông không tấc đất cắm dùi như lão. Thế thì tốt quá, hay quá, sướng quá. Nghĩ vậy nên mặc dù thấy khó chịu khi phải ngồi nghe cái tay đội trưởng đội du kích cũ nói nhưng lão vẫn cố nén nhịn. Đội trưởng đội cải cách Hà Văn Bồi đưa mắt nhìn các "cốt cán” bần cố nông rồi hỏi:
- Bà Mùa mấy đời đi ở cho địa chủ rồi nhỉ?
- Thưa… nhà tôi hai, à phải đến ba đời đi ở rồi ạ!
- Thế thì tốt! Vậy còn cô Tẻo?
- Nhà cháu ba đời đi ở cho địa chủ rồi đấy ạ! Cháu… cháu khổ lắm… hu... hu… hu…
- Không được khóc… lúc này chưa được khóc… phải biến căm thù thành quyết tâm để đấu tố, phát hiện, vạch mặt, chỉ tên bọn địa chủ ác bá bóc lột tận xương tủy nông dân hiểu không?
Ông đội Hà Văn Bồi nghiêm khắc nhắc nhở. Cô Tẻo sụt sịt:
- Vâng cháu hiểu…
- Thế còn đồng chí Thực! Đồng chí bị bọn địa chủ bóc lột thế nào?
- Tôi đi ở cho ông Bân thật nhưng ông ấy đâu có "bóc lột" gì tôi. Ông ấy cho tôi ăn, có gì ăn nấy. Ông ấy cho tôi quần áo. Ông ấy mặc áo nâu, tôi cũng mặc áo nâu…
Đội trưởng đội cải các Hà Văn Bồi cắt lời lão Thực vẻ khó chịu:
- Thế ông ấy có trả công xứng đáng cho đồng chí không?
- Trả công gì ạ! Tôi đói, ông ấy cho ăn, tôi rét, ông ấy cho mặc, tiền tiêu vẫn cho. Tôi vào du kích tham gia kháng chiến, thỉnh thoảng ông ấy vẫn gửi gạo muối tiếp tế...
Đội trưởng Hà Văn Bồi phải giải thích một thôi một hồi về việc lão đã bị bóc lột như thế nào. Lão Thực cố căng tai ra nghe mà không hiểu. Đội trưởng Hà Văn Bồi nghiêm khắc nhắc nhở lão về vai trò của người chiến sĩ du kích cách mạng, về trách nhiệm tầng lớp bần cố nông của lão. Đội trưởng Bồi còn lưu ý thêm việc lão là một người đang phải kiểm điểm thử thách. Lão Túc thấy hoang mang quá. Kết thúc buổi gặp gỡ, bồi dưỡng lão lò dò trở về cái chòi gác ở ven sông Đáy. Đang đi chợt lão thấy mót dạ. Lão chui vội vào một lùm cây ven đường. Vừa tụt quần ngồi xuống thì lão nghe có tiếng chân người. Vạch lá nhìn ra, dưới ánh trăng cuối tháng lão nhận ra anh đội trưởng đội du kích và đội trưởng đội cải cách ruộng đất đang đi đến. Hai người dừng lại đứng đái ngay cạnh lùm cây. Vừa tè, họ vừa tranh thủ trao đổi. Đội trưởng Hà Văn Bồi nói:
- Gay go quá! Nếu như thế này thì làng Đông không đủ số địa chủ theo tỷ lệ quy định ông ạ!
- Thì làng Đông bé tý, ruộng đất ít, có một địa chủ Bân là đủ rồi!
- Đủ là đủ thế nào! Theo quy định thì làng Đông phải có hai địa chủ mới tạm ổn!
- Vậy lấy đâu ra một địa chủ nữa bây giờ?
- Thế… ông Tam không được à! Ông này cũng có đến tám mẫu ruộng, gần chục con trâu bò. Địa chủ quá đi chứ!
- Ông Tam chỉ là thành phần trung nông thôi! Với lại con gái ông ấy là cô Thoa, chiến sĩ du kích mới bị địch bắn chết đầu năm ngoái. Đội du kích đang đề nghị cấp trên công nhận liệt sĩ cho cô ấy!
- Công nhận cái gì! Vô kỷ luật bị địch bắn chết chứ chiến đấu gì đâu mà liệt sĩ… Thôi cứ quyết định như thế nhé! Ta sẽ phát động bà con đấu tố hai tên địa chủ làng Đông là Đào Quang Bân và Vũ Đình Tam…
Nghe lỏm được câu chuyện của hai ông đội khiến lão Thực thấy lạnh sống lưng, sởn cả gai ốc. Lão chập choạng đứng dậy suýt nữa thì quên cả kéo quần lên.
Hôm tổ chức đấu tố bọn địa chủ, cả làng Đông kéo nhau ra chật cả sân đình. Ông Bân bị trói quặt cánh khỉ vào cột tre đóng trên bãi cỏ trước sân. Ông Tam-bố cô Thoa là "địa chủ nhỏ” nên không bị trói. Đám đông người xúm xít xung quanh ra sức kêu gào, rỉa rói kể tội địa chủ bóc lột, làm tay sai cho đế quốc thực dân, quốc dân đảng... Bà Mùa nhảy dựng lên chỉ mặt địa chủ Bân vừa khóc vừa gào to thống thiết:
- Nó bóc lột tôi đến tận xương tuỷ. Nó bắt tôi làm suốt ngày, suốt đêm. Nó cho tôi ăn cơm độn sắn, trộn cả tro trấu vào… Hu… hu… hu… nó… nó… còn hiếp tôi. Ngày nào nó cũng hiếp tôi ở trong bếp, ở đống rơm ngoài vườn, ở ngoài cầu ao, ngoài ruộng… Nó hiếp tôi mọi lúc, mọi nơi… Nó… nó…
Bà Mùa vô cùng xúc động khi kể tội địa chủ Bân. Bà còn định tốc cả váy lên để chứng minh đúng là mình đã bị hiếp như thế nào. Trước tình hình ấy, đội trưởng Bồi vội khoát tay ra hiệu. Mấy du kích lập tức xông lên kéo bà Mùa trở về vị trí ngồi của quần chúng. Đến lượt cô Tẻo lên phát biểu. Cô Tẻo còn trẻ nên chỉ nhận bị địa chủ hiếp có hai lần. Cô cũng khóc nức lên đòi phải xử tử hết "giai cấp địa chủ phong kiến” áp bức bóc lột bần cố nông. Đến lượt lão Thực được mời lên bục. Lão nói giọng run run, vẻ bức xúc, phẫn uất. Nhưng lão lại không kể tội, đấu tố địa chủ Bân như đã được đội "bồi dưỡng" trước. Mà ông nói về việc ông Bân đã nhặt được lão nằm đói lả ở ngoài bờ đê thế nào, cho ăn, uống thế nào. Khi lão bị bệnh một sống, chín chết ông Bân nửa đêm đưa lão đi tìm thầy lang để cứu chữa thế nào. Lão cũng xin nói thêm về việc bà Mùa tố cáo địa chủ Bân cướp cái vại muối dưa của bà ấy như thế nào:
- Chiều ba mươi tết...- Giọng lão Thực càng bức xúc:- Bà ấy đem cái vại đến khóc lóc, nói nhà không có nổi một đấu gạo nếp gói bánh cho con. Ông Bân bảo tôi xúc cho bà ấy hai đấu gạo nếp, lại cho thêm nửa cân thịt lợn. Ông ấy không lấy nhưng bà ấy cứ để cái vại ở sân rồi đem gạo, thịt ra về. Thế mà bây giờ bà ấy lại xưng xưng nói ông Bân cướp cái vại muối dưa của nhà bà ấy, rồi còn tố cáo ông ấy hiếp bà ấy khắp nơi... Thật đúng là chuyện ăn không nói có, gắp lửa bỏ tay người, lấy oán báo ân...
Cả đám người đang say đấu tố sôi sùng sục lên khi nghe lão nói như¬ vậy.
Đội trưởng đội cải cách Hà Văn Bồi bật dậy thét to như lệnh vỡ:
- Quân phản động! Đồ... đồ... ôm đít bọn địa chủ phong kiến bóc lột...
Những tiếng hô: "Đả đảo… đả đảo địa chủ Đào Quang Bân... đả đảo...” vang lên ầm ầm. Đội trưỏng Hà Văn Bồi ra lệnh cho du kích xông lên lôi cổ lão Thực xuống. Lão Thực bị táng một báng súng vào vai ngã lă¬n ra đất. Mồm lão ngoạm đầy cát bụi. Lão lồm cồm bò dậy. Trước khi bị du kích lôi đi lão Thực còn cố ngoái lại nhìn địa chủ Bân đang bị trói ở cột tre. Lão thấy ông ấy khóc, nước mắt chảy dài trên gò má nhem nhuốc.
Người ta xử bắn ông Bân ngoài bãi sông Đáy. Riêng ông Tam, bố cô Thoa thì bị giam chờ tiếp tục đấu tố vì ông kiên quyết không chịu nhận mình là địa chủ. Sau này sửa sai địa chủ Đào Quang Bân còn được công nhận là người có công với kháng chiến vì đã đóng góp tiền, lương thực cho bộ đội. Riêng ông Tam, bố cô Thoa thì được quay trở lại thành phần trung nông như cũ. Duy chỉ có lão Thực là không được "sửa sai”. Lão bị khai trừ, bị quy là phản động Quốc dân đảng. Lão cũng không được chia ruộng để cày cấy như các bần cố nông khác…
Câu chuyện thứ 5: Lão Thực và hợp tác xã
Lão Thực bị khai trừ khỏi tổ chức và đội du kích sau cái bận đấu tố địa chủ trong cải cách ruộng đất ấy. Khi tiến hành sửa sai họ cũng không phục hồi cho lão. Lão Thực lâm vào hoàn cảnh tiến thoái lưỡng nan. Lão không được chia ruộng đất nên không biết làm gì để sống. Lão sắm một cái vó. Ngày ngày lão ra sông Đáy kéo vó kiếm con tôm, con cá đem lên chợ bán hoặc đổi lấy gạo muối. Mùa nước sông cạn, không kiếm được tôm cá thì lão lên rừng chặt củi khô để bán.
Một hôm gánh củi băng qua cánh đồng thôn Bắc lão thấy có một bãi đất hoang rộng đến gần ba sào đầy cây cỏ dại, lổn nhổn những đá sỏi. Lão quyết định khai khẩn bãi đất hoang để cấy lúa. Lão hì hục đào gốc cây, nhổ cỏ bê vần những hòn đá mồ côi xếp xung quanh thành bờ ruộng. Đám đất khô cằn nên cấy lúa thì leo pheo khổ trổ bông, trồng khoai thì không có củ. Không nản chí, lão vẫn kiên trì cải tạo, bồi bổ tăng cường độ phì nhiêu cho thửa ruộng mình vỡ hoang được. Lão quảy quang gánh lên đồi theo đàn trâu bò thả rông nhặt phân, ra bờ sông lấy phù sa về đổ vào mảnh đất. Kiên trì mãi, đám ruộng cũng trở nên phì nhiêu, cấy lúa đã cho bông, trồng khoai đã có củ. Thế là lão cũng trở thành người có ruộng.
Khi hợp tác xã nông nghiệp được thành lập lão Thực rất muốn tham gia. Nhưng xét về nhân thân của lão nên họ chưa muốn kết nạp vào hợp tác xã. Đội trưởng đội cải cách Hà Văn Bồi bây giờ là chủ nhiệm hợp tác xã nông nghiệp mang tên Quyết Tiến gồm các làng Đông, thôn Bắc, xã Quan Sơn. Chủ nhiệm Bồi lúc nào cũng đeo một bên hông một cái xà-cột đen căng phồng, một bên là cái đài Xiêng-mao Trung Quốc, đạp chiếc xe đạp Thống nhất đi thăm đồng, chỉ đạo các đội sản xuất trông rất oai phong. Các xã viên đội sản xuất làng Đông lao động tập thể, ngày ngày kéo nhau thành đoàn ra đồng cày bừa, gặt hái, nghỉ giải lao, đều theo tiếng kẻng khí thế rất hồi hởi, vui vẻ. Trên cánh đồng hợp tác cờ đỏ tung bay phần phật, khẩu hiệu giăng cắm khắp các bờ ruộng, tiếng loa phóng thanh ca nhạc, hò hát tưng bừng. Thế nhưng, làm ruộng theo cách "đánh trống ghi công”, quản lý tài sản, vật tư theo kiểu "cha chung không ai khóc” chỉ được cái khí thế tưng bừng, hồ hởi nhưng năng suất thì lại rất thấp. Ruộng lúa của hợp tác xã chuột chạy hở lưng, chim bay không vướng, bông lúa toàn là hạt lép. Trong khi đó mảnh ruộng vỡ hoang của lão Thực lúa tốt bời bời, bông dài, hạt mẩy. Chỉ có điều là trong khi khắp cánh đồng rộn ràng tiếng hát của các xã viên lao động tập thể thì lão Thực lủi thủi một mình gặt lúa. Lão ôm những bó lúa nặng chĩu hạt đặt lên bờ cạnh những bó lúa toàn là rơm của hợp tác xã. Chính vì vậy mà có việc chủ nhiệm hợp tác xã nông nghiệp Quyết Tiến Hà Văn Bồi đến gặp lão Thực.
Do là hộ làm ăn cá thể, tư hữu nên nhà lão Thực ngày ấy rất ít người đến chơi. Vậy mà buổi trưa nay khi vừa từ ruộng về, lão đã có khách. Chủ nhiệm Bồi dắt chiếc xe Thống nhất đi vào. Tiếng líp xe đạp lạch tạch, Tiếng cái đài Xiêng-mao kêu xoe xóe từ ngoài cổng. Lão Thực lúng túng ra đón khách. Lão pha nước mời ông chủ nhiệm hợp tác xã. Ông chủ nhiệm không uống. Có lẽ ông ta sợ uống nước của phần tử tư hữu sẽ bị ảnh hưởng của chủ nghĩa cá nhân chăng. Ông ậm è hắng giọng rồi bắt đầu nói:
- Ông Thực này! Hiện nay miền Bắc ta đang tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, không kinh qua phát triển tư bản chủ nghĩa đấy!
- Vâng…- Lão Thực miễn cưỡng "vâng… vâng…” đáp lại cho có vẻ tôn trọng ông chủ nhiệm nguyên đội trưởng đội cải cách ruộng đất.
- Toàn dân đang ra sức lao động sản xuất, xây dựng hậu phương lớn vững mạnh, chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam đánh thắng giặc Mỹ xâm lược…
- Vâng…
- Vậy nên khí thế thi đua lao động sản xuất rất mạnh mẽ, mọi người đều coi hợp tác xã là nhà, xã viên là chủ…
- Vâng…
- Tất cả bà con xã viên đều đồng lòng nhất trí làm ăn tập thể, ra sức xây dựng hợp tác xã ngày càng giàu mạnh!
- Vâng…
- Mỗi người làm việc bằng hai, bằng ba vì miền Nam ruột thịt…
- Vâng…
- Vậy mà ông lại không ủng hộ con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, không ủng hộ giải phóng miền Nam và phong trào hợp tác hóa nông nghiệp?
- Vâng…- Lão Thực chợt giật nảy mình vì lỡ lời. Lão vội ấp úng chữa lại:- À… không… không… tôi vẫn… vẫn rất ủng hộ… ủng hộ luôn luôn đấy chứ… Tôi cũng đã viết đơn xin vào hợp tác xã rồi đấy…
- Ủng hộ… mà tại sao ông vẫn làm trái như thế?
- Tôi có làm gì đâu ạ?
- Thì ruộng lúa của ông năng xuất vẫn cứ gấp đôi, gấp ba của hợp tác xã là gì?
Lão Thực không hiểu. Chủ nhiệm Hà Văn Bồi giải thích:
- Ruộng lúa của ông năng xuất gấp hai, gấp ba ruộng hợp tác xã. Vậy là không ổn. Nó sẽ làm giảm niềm tin của các xã viên. Làm ăn tập thể có tổ chức, có kỷ luật, có văn hóa văn nghệ động viên tinh thần mà năng suất lại không cao bằng lao động cá nhân tư hữu thì còn ra làm sao nữa chứ?
- Vâng…
- Vậy nên… ông có thấy như thế có phải là ảnh hưởng đến khí thế thi đua của tập thể xã viên đang hăng hái ra sức phấn đấu để tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, chi viện cho miền Nam không?
- Vâng… vâng…
- Nên ông hãy xem lại cách làm ăn của mình, cố tình chống lại tập thể là không được đâu!
Lão Thực chột dạ khi nghe chủ nhiệm Bồi nói như vậy. Khi ông chủ nhiệm ra về lão vẫn ngồi thừ người ra ở cái chõng tre kê giữa nhà, quên cả ăn cơm.
Sau lần ông chủ lão Thực phải giảm sự chăm sóc đối với mảnh ruộng của mình. Vụ cấy đến lão chỉ bừa qua loa rồi cắm cây mạ. Ruộng lúa của lão năng suất giảm hẳn đi để cho các xã viên hợp tác xã yên tâm là làm ăn cá thể không thể bằng lao động tập thể. Nhưng rồi lại phát sinh một mâu thuẫn khác. Chủ nhiệm Hà Văn Bồi lo thửa ruộng tư hữu của lão nằm giữa cánh đồng hợp tác như một chướng ngại vật sẽ gây khó khăn cho việc tiến tới cơ giới hóa nông nghiệp, cày bừa bằng máy, cấy chăng dây thẳng hàng. Hơn nữa, ông chủ nhiệm rất nghi ngờ năng xuất lúa ở thửa ruộng của lão Thực cao hơn hẳn những chân ruộng của hợp tác xã ở chung quanh. Nhất định là lão này bí mật đục lỗ ngầm xuyên qua bờ ruộng rút hết tinh chất phân đạm, phân lân, phân hữu cơ từ ruộng của hợp tác xã vào ruộng của mình rồi. Ông lệnh cho đội trưởng đội sản xuất thôn Bắc và công an thôn thường xuyên theo dõi. Để yên tâm hơn, theo sáng kiến của chủ nhiệm hợp tác xã, ông đội trưởng đội sản xuất thôn Bắc còn cho đắp bờ vùng bờ thửa như một con đê nhỏ xung quanh ruộng nhà lão Thực.
Nhưng chính thửa ruộng nằm giữa cánh đồng hợp tác cũng gây nhiều phiền hà cho lão Thực. Khi trời hạn hán, lão không thể dẫn nước qua ruộng của hợp tác xã về ruộng của mình. Ông đội trưởng đội sản xuất làng Đông khuyến cáo lão: "Ruộng hợp tác xã đã đổ phân bón lót, ông không được dẫn nước đi qua mất hết chất dinh dưỡng của ruộng tập thể đấy!”. Cũng may do ruộng trũng, nước ngấm qua bờ nên mấy sào ruộng của lão Thực cũng đủ nước cấy. Nhưng khi trời hạn hán thì thật khốn khổ. Khi đội sản xuất tổ chức tát nước lên đồng đông vui như hội, tiếng hát, tiếng hò rộn ràng trên khắp cánh đồng thì lão Thực lủi thủi một mình gánh nước từ cái ao nhỏ nhà mình ra đổ xuống ruộng cứu lúa.
***
Rồi lão Thực cũng được kết nạp vào là xã viên hợp tác xã nông nghiệp Quyết Tiến. Đó là sau cái chết của chủ nhiệm hợp tác xã Hà Văn Bồi. Chủ nhiệm Bồi bị sét đánh tử thương giữa cánh đồng. Hôm đó, trời đang quang mây tạnh bỗng xuất hiện một cơn mưa giông lớn. Các xã viên hợp tác xã đang gieo mạ ở mấy chân ruộng cao giữa cánh đồng làng Đông thì mây đen ùn ùn kéo đến, sấm chớp lằng nhằng. Mọi người hò gọi nhau chạy về làng để tránh mưa. Chủ nhiệm Hà Văn Bồi đi học nghị quyết từ trên xã đạp xe về qua. Ông liền hỏi một thanh niên đang hớt hải chạy về làng:
- Các ruộng mạ vừa gieo đã đắp chổ cả chưa?
- Đã đắp hết rồi bác ạ!
- Không đắp cẩn thận để vỡ bờ là nước cuốn trôi mất hết mạ giống đấy!
- Chủ nhiệm cứ yên tâm đạp xe về làng đi không mưa to đến nơi rồi đấy!
- Mưa tý việc cái gì! Mưa thế mà bộ đội người ta vẫn hành quân đi chiến đấu kia kìa! Các cậu là thanh niên gì chưa chi đã ngại khó, ngại khổ…
Chủ nhiệm Hà Văn Bồi lẩm bẩm. Trong khi các xã viên hớt hải chạy về làng tránh mưa thì ông lại đạp xe ra giữa cánh đồng để kiểm tra lại các tràn ruộng vừa mới gieo mạ. Trời tối sầm lại. Mưa rơi đen cả đất. Một tia chớp lóe lên rạch ngang bầu trời rồi phóng xuống đất. Tiếng sét rền vang long cả óc. Khi trời tạnh mưa các xã viên kéo ra đồng kiểm tra lại ruộng mạ và khai thông mương máng thoát nước thì thấy chủ nhiệm Hà Văn Bồi gục trên bờ ruộng. Chiếc xe đạp Thống nhất bị sét đánh cong queo, đen thui. Họ hốt hoảng kêu cứu ầm ĩ. Lúc này, lão Thực cũng đang ra kiểm tra thửa ruộng của mình. Nghe tiếng kêu cứu và tiếng khóc, lão vội vứt cái cuốc chạy đến.
Chủ nhiệm Bồi chết gục trên bờ ruộng trong tư thế như một người đang quỳ lạy, hai tay chắp lại. Mặt ông bị cháy đen, tóc quăn tít có lẽ do bị nóng quá. Lạ nhất là hai mắt ông trợn ngược, lòi hẳn con ngươi ra. Miệng ông há hốc, lưỡi thè hẳn ra như đang bị ai bóp cổ. Ông chủ tịch và mấy công an xã có mặt lập biên bản khám nghiệm hiện trường rồi mới cho người nhà đưa xác về khâm liệm để mai táng. Cũng lạ thay, người nhà vuốt mãi mà mắt ông không sao nhắm lại được. Chân tay ông co quắp, lưỡi cũng không thể thụt vào bên trong miệng. Đám con cái chủ nhiệm Bồi thấy thế khóc lóc ầm ĩ cả lên. Lão Thực đứng lặng nhìn người chết. Chợt như vừa nghĩ ra điều gì đó lão nhớn nhác nhìn xung quanh. Đoạn, lão liền rẽ đám đông bước vào gần chỗ chủ nhiệm Bồi đang nằm gục lên bờ ruộng. Lão bảo mọi người giãn ra rồi bước lại đứng cạnh cái xác. Theo hướng chắp tay của chủ nhiệm, lão vái liền mấy vái rồi lầm rầm khấn khứa gọi tên một ai đó. Mấy thằng thanh niên dỏng tai lên nghe nhưng chịu chả biết lão lẩm nhẩm những gì. Mọi người nhìn theo hướng lão vừa vái lạy. Cách chỗ chủ nhiệm bị nạn không xa có một ngôi mộ nhỏ xây bằng gạch. Đầu ngôi một cắm một tấm bia đá màu xám. Đất cát bám che mất cả chữ khắc trên mặt bia. Sau khi khấn vái, lão Thực vuốt mắt cho chủ nhiệm. Hai mắt chủ nhiệm Bồi từ từ nhắm lại, lưỡi cũng thụt vào trong miệng, chân tay ông dần ruỗi thẳng ra.
Khi người ta đưa ông chủ nhiệm Bồi đi rồi, lão Thực mới bước lại phía ngôi mộ xây bằng gạch. Lão dùng tay vốc nước ruộng rửa sạch tấm bia đá bị bùn đất trát kín. Trên tấm bia ghi mấy chữ: "Ông Đào Quang Bân, sinh năm…, tạ thế ngày 17 tháng 2 năm 1954”. Đó chính là cái ngày đã diễn ra cuộc đấu tố và xử tử địa chủ của người dân làng Đông.
Sau khi chủ nhiệm Hà Văn Bồi chết, mở cái xà-cột mà ông vẫn đeo bên hông người ta tìm thấy lá đơn xin vào hợp tác xã nông nghiệp của công dân Nguyễn Công Thực. Thì ra lá đơn của lão bấy lâu nay vẫn nằm trong xà-cột của chủ nhiệm Bồi, ông không đưa ra để ban quản trị xem xét. Vì thế lão Thực mãi không được kết nạp vào hợp tác xã nông nghiệp Quyết Tiến…
Câu chuyện thứ 6: Lão Thực và con gái
Câu chuyện lão Thực hì hục một mình lao động trên thửa ruộng tư hữu đã khiến cho có người thắc hỏi: "Lão này không có vợ con gì à?”. Xin nói ngay, lão cũng có vợ con đấy chứ, nhưng sau khi vào hợp tác xã lão mới cưới vợ. Câu chuyện lão có vợ cũng hoàn toàn ngẫu nhiên. Mọi chuyện bắt đầu từ một ngày đáng nhớ. Đó là ngày giỗ của cô Thoa.
Lão Thực cầm thẻ nhang ra một người nữ du kích. Lão cố ý đi vào buổi chiều. Vì lão biết buổi sáng người nhà cô Thoa thường hay đến thăm mộ. Lão tránh gặp họ. Vì lão vẫn còn ngại họ nghĩ cô Thoa chết là do lão. Mặc dù nguyên nhân chính phải là do đội trưởng du kích Hà Văn Bồi chịu trách nhiệm. Nhưng đội trưởng Hà Văn Bồi thì cũng đã bị sét đánh chết giữa cánh đồng rồi.
Châm mấy nén nhang cắm lên mộ xong. lão Thực đang lúi húi nhổ mấy búi cỏ xung quanh nấm đất thì giật mình nghe có tiếng động sau lưng. Lão quay lại và nhận ra ông cụ Tam, bố cô Thoa cùng một người đàn bà và một cô bé đang đứng ngay phía sau lưng mình. Ông cụ Tam bây giờ đã già yếu lắm rồi. Ông chống cái gậy lưng còng hẳn xuống. Lão đứng dậy, tay vẫn cầm nắm cỏ ấp úng:
- Cháu chào ông ạ!
Ông Tam gật đầu chào lại. Ông cụ cũng đã biết tại sao lão lại ở đây vào ngày này. Ông cụ bảo:
- Anh giúp em nó bày đồ cúng, hoa quả ra đi! Cúng xong mời anh về nhà tôi uống chén rượu nhạt để tưởng nhớ ngày mất của em Thoa!
Lão Thực giúp cô gái bày đồ cúng ra. Cô này là em con ông chú của Thoa. Cô ở trên thị trấn đưa con về ăn giỗ chị. Ông Tam lại bảo:
- Sau giỗ, tôi sẽ đưa mộ em Thoa về đặt gần mộ mẹ nó để hai mẹ con luôn được ở gần nhau.
Lão Thực vội can:
- Cháu nghe nói xã đang hoàn chỉnh thủ tục công nhận cô Thoa là liệt sĩ. Hay là… cứ để Thoa ở đây. Khi nào Thoa được công nhận là liệt sĩ thì đưa vào nghĩa trang liệt sĩ của xã ta bác ạ!
- Thôi anh ạ! Cũng chả quan trọng gì. Để em nó ở gần mẹ vẫn hơn. Vinh quang, danh dự đến đâu thì người cũng đã mất rồi còn gì nữa!
Giọng của ông Tam bùi ngùi. Lão Thực cũng thấy nao nao trong lòng. Nhớ lại những ngày hai người cùng ở trong cùng đội du kích quấn quýt bên nhau. Thế mà bây giờ mỗi người một ngả, âm dương cách biệt. Rất gần nhau đây nhưng là xa cách ngàn trùng. Hoa quả bày xong, lão Thực và hai mẹ con người đàn bà đứng sau ông cụ Tam. Họ lầm rầm khấn vái. Mỗi người một tâm trạng khi đứng trước nấm mộ của người đã chết. Nắm hương cắm trên mộ tự nhiên bùng lên cháy thành ngọn lửa. "Hoá chân nhang rồi!” - Lão Thực nghĩ. Chắc là hương hồn của Thoa đang quanh quất đâu đây. Thoa đang nhìn thấy mọi người. Nhưng mọi người và lão lại không thế nhìn thấy cô.
Ông cụ Tam nhắc lại:
- Anh về luôn trong nhà thắp nén hương trên bàn thờ em nó và uống chén rượu nhạt với gia đình chúng tôi...
Lão Thực không dám từ chối.
Lão theo ông cụ và hai mẹ con người đàn bà về nhà cô Thoa. Trong bữa giỗ ấy lão mới biết người đàn bà em họ cô Thoa tên là Lý. Chồng chị ta cũng đã chết trong chiến tranh do bị trúng bom của bọn Pháp ném xuống phố chợ. Họ chỉ có một đứa con gái nhỏ. Cô bé hơn tám tuổi. Khi nó sinh ra thì bố đã chết được hơn năm tháng rồi. Ông cụ Tam có ý muốn vun cho hai người với nhau. Khi ấy, lão Thực thì cũng đã ngót nghét bốn chục tuổi rồi còn gì. Sau kháng chiến số lão lật đật, làm ăn cá thể, mãi mới được kết nạp vào làm xã viên hợp tác xã. Bây giờ thì lão đã là một xã viên gương mẫu, một lao động tiên tiến luôn luôn có số công điểm cao nhất đội sản xuất rồi.
Đám cưới của lão với cô Lý cũng đơn giản. Ông cụ Tam đứng ra lo cho cả hai người. Cụ vừa đại diện cho nhà gái lại vừa đại diện cho nhà trai. Lão Thực tứ cố vô thân. Từ ngày Thoa chết, lão coi ông cụ Tam như một người cha của mình. Ông cụ già yếu, không có sức lao động, đến mùa hợp tác xã chỉ "điều hoà” bán cho năm mươi ki-lô-gam thóc, tính ra chỉ có tám ki-lô-gam thóc một tháng. Ông cụ ăn ít thì mỗi tháng với số thóc ấy xay sát ra chỉ được có bốn ki-lô-gam gạo, cũng chả thể nào đủ. Ngày còn làm ruộng cá thể, lão Thực vẫn mang gạo đến cho cụ mỗi tháng thêm vài ba cân. Ông cụ từ chối không nhận lão cũng cứ để lại. Nghĩ mà buồn cười, một người như nhà ông cụ Tam, trong cải cách ruộng đất suýt nữa lên thành phần địa chủ thế mà vào hợp tác xã, ruộng đất, trâu bò công hữu hết, mỗi tháng được bán điều hoà cho tám cân thóc, chả đủ nấu cháo cầm hơi.
Sau đám cưới, cô Lý đưa con về ở với lão Thực ở trong căn nhà tre cuối làng Đông, cạnh cái đầm đầy cỏ dại và muỗi đỉa. Dân làng bảo ông Thực này thế mà khôn, "tậu trâu được luôn cả nghé”. Nhưng số lão Thực khổ. Cô lý ở với lão chưa được tám năm thì mắc bệnh hiểm nghèo rồi mất. Lão và cô Lý không có con chung. Cũng may con bé Lan rất yêu quý lão, coi lão như bố đẻ ra mình. Con bé học trung cấp nông nghiệp, ngành trồng trọt. Chính nó sau này khi lao động trong nông nghiệp thực hiện khoán sản phẩm đã tham mưu cho lão nhận thầu khu đầm lầy làm trang trại, đào ao, thả cá. Rồi suốt bao nhiêu ngày tháng nó lăn lộn thiết kế ao vườn, giúp lão cải tạo mặt đất, mặt nước, trồng cây, thả cá. Vậy nên dần dần lão mới có một khu vườn xanh mát nhất làng thế này. Con bé Lan là một người có năng lực và sáng tạo trong công tác. Nó lại là một người chăm chỉ, chịu khó. Vừa làm, vừa học, nó vẫn thi đỗ vào đại học nông nghiệp với điểm số rất cao. Tốt nghiệp ra trường nó được điều về sở nông nghiệp của tỉnh. Cứ nghĩ chặng đường đời của nó như vậy là thuận buồm, mát mái. Không ngờ tại vì lão mà sự nghiệp của nó lại gặp nhiều trắc trở. Chuyện này mãi sau này lão mới biết. Hoá ra ở sở người ta định bồi dưỡng, đưa nó vào nguồn phát triển cán bộ, kết nạp vào tổ chức. Nhưng khi tổ chức đi thẩm tra lý lịch, nhân thân thì họ được chính quyền xã thông báo cho biết bố con bé là người "có vấn đề” trong cải cách ruộng đất, không kiên quyết đấu tranh vạch mặt, chỉ tên bọn địa chủ. Khi hợp tác xã thành lập thì lão vẫn còn có thời gian làm ăn cá thể, có ý ngăn cản phong trào hợp tác hoá. Toàn những chuyện động trời như thế thì làm sao con cái có thể vào nguồn cán bộ để phát triển được.
Khi rõ mọi chuyện, lão rất buồn. Một hôm con gái về thăm, lão cứ đắn đo và ngập ngừng mãi rồi bảo:
- Con không phải là con đẻ của bố mà lại bị ảnh hưởng bởi quá khứ và những việc làm của bố…
Lão ngừng lời thăm dò thái độ của con bé. Nó không nói gì, mắt rớm lệ. Lão nói tiếp:
- Hay là… bố… bố… con mình thôi không… không…- Lão thấy khó diễn đạt ý nghĩ của mình một cách tế nhị nên đành nói rõ luôn hẳn ra:- Con hãy coi như không có bố nữa… đừng khai trong lý lịch tên bố để họ khỏi điều tra rồi gây khó khăn cho con…
Nghe lão nói như vậy, con bé oà lên khóc nức nở. Lão Thực lúng túng. Lão lo lắng không hiểu con bé sẽ có ý kiến phản ứng như thế nào. Lão rất thưong nó. Nhưng lão không muốn vì mình mà nó cự trục trặc lận đận mãi trong sự nghiệp của đời mình.
Cái Lan chùi nước mắt. Nó chăm chăm nhìn lão. Lão thấy lo lo. Trong lòng lão chợt thấy một sự trống rỗng, vô nghĩa. Lão rất muốn nó sẽ từ lão, cắt đứt mọi liên hệ với lão để không còn vật cản trong cuộc đời và sự nghiệp nữa. Tuy thế lão vẫn thấy sự hẫng hụt, mất mát.
- Bố ạ!- Cái Lan đã trở nên bình tĩnh một cách không ngờ:- Con rất buồn vì những trục trặc trong công việc. Nhưng dù thế nào thì con vẫn luôn luôn coi bố là người cha kính yêu của mình. Tiền đồ, sự nghiệp chả là gì nếu con không có bố, bố ạ!
Nói xong, nó đứng dậy. Nó đang có dự định thí nghiệm nuôi ếch và ba ba trong trang trại. Lão Thực nhìn theo nó đang xách cái cuốc ra ao mà thấy lòng mình ngổn ngang, lộn xộn bao nhiêu nỗi niềm.
Câu chuyện của lão và con gái như vậy. Chuyện cũng chẳng có gì nhưng khiến lão cứ thấy trăn trở bao năm. Sau này cơ quan cái Lan có một ông thủ trưởng mới về nhậm chức. Ông này có quan niệm khác về "chủ nghĩa lý lịch” nên nó cũng dễ dàng hơn. Tuy vậy, nó cũng vẫn chỉ là một người "thực đức”. "thực tâm”, "thực tài” nhưng lại thiếu mất cái thực thứ tư mà trong thời buổi này điều đó lại là số một.
Câu chuyện thứ 7: Lão Thực và giấc mơ trưa
Một buổi trưa, trong khu vườn sinh thái của lão Thực mọi người đang quây quần quanh ấm nước chè xanh rôm rả bàn chuyện xóm làng, chuyện đồng áng. Đúng khi lão Thực vừa bưng bát nước chè xanh đặc sánh lên thì thằng Nhân lao vào hổn hển nói:
- Các cụ, các ông và các bác đã biết chuyện gì chưa?
- Chuyện gì!- Ông Bứa vừa nhồm nhoàm nhai củ khoai lang vừa nhấm nhẳng bảo:- Có chuyện gì thì mày nói mẹ nó ra đi rồi ngồi xuống ăn củ khoai lang và làm bát nước chè tươi của cụ Thực, ngon lắm.
Thằng Nhân ném cái võng đay lên chạc ba cây nhãn rồi ngồi xuống mép chiếu. Nó khua khua tay:
- Chuyện rất quan trọng! Để yên cháu kể cho mà nghe!
- Thì chúng tao vẫn để yên cho mày nói đấy chứ có ai bóp cổ mày đâu?
- Ông chủ tịch xã ta phen này thì đi dứt rồi…
- Tại sao thế? Mà thôi hội ta đã quy định là không bàn bạc đến chuyện nhân sự nữa cơ mà?
Ông Bứa vội ngăn nó. Lão Thực cũng nhăn mặt:
- Kể chuyện khác đi, chuyện nhân sự tao thấy ngán lắm rồi!
- Không…- Thằng thợ xây vặt quanh làng quanh xã lại vung tay lên:- Đây không phải là "chuyện nhân sự” mà là "chuyện hình sự" cơ mà!
- Chuyện hình sự thế nào?
- Cháu vừa từ trên trụ sở uỷ ban xã chạy ngay về đây để thông báo cho mọi người biết! Công an đã vừa đọc lệnh bắt tạm giam rồi!
- Bắt ai?
- Bắt chủ tịch xã ta!
- Sao ông ấy lại bị bắt?
- Thì khai khống diện tích giải phóng mặt bằng khu công nghiệp để nhận tiền đền bù, rồi bán đất… Nghe nói tham nhũng ngót cả chục tỷ đồng đấy!
- Thế cơ à…
Mọi người ồn ào cả lên trước cái tin sốt dẻo động trời mà thằng Nhân vừa thông báo.
Thằng Nhân bấy giờ mới bình tĩnh kể lại toàn bộ nội dung câu chuyện cho có đầu, có đũa. Cụ thể là cuối giờ buổi sáng nay khi nó đang gấp rút hoàn thiện cái nhà tắm "nóng-lạnh” cho lãnh đạo xã thì thấy có hai chiếc xe công an chạy thẳng vào sân trụ sở uỷ ban xã. Một chiếc xe chở người, một chiếc xe dùng để chở tù. Công an vào ngay phòng ông chủ tịch. Họ đọc lệnh bắt, khám xét nơi làm việc và nhà riêng của ông chủ tịch xã và mấy người nữa. Lãnh đạo và các cán bộ của xã bấy giờ mới ngã ngửa người ra. Hoá ra ngay từ khi có dự án xây dựng khu công nghiệp tại đây đã một dây chuyền tham nhũng hình thành ở xã Quan Sơn. Ông chủ tịch, bà cán bộ tài chính, ông cán bộ địa chính đã cấu kết với ban giải phóng mặt bằng. Họ khai khống diện tích giải phóng mặt bằng để nhận tiền đền bù chia nhau. Rồi họ bớt xén cả tiền đền bù của bà con nhân dân trong xã. Không những thế, bọn họ còn kiếm được mỗi người mấy xuất đất tái định cư, giãn dân nữa.
Kể xong câu chuyện vừa xảy ra, thằng Nhân quay sang nhìn lão Thực vẻ hứng khởi bảo:
- Phen này thì cụ vui mừng quá rồi! Những người vẫn hay lên giọng đe nẹt cụ, phủ nhận công lao của cụ, làm sai lệch lịch sử của xã ta đều đã bị bắt hết cả rồi cụ ạ! Cụ phải thịt gà, mổ ba ba tổ chức liên hoan đi thôi!
Lão Thực nhăn mặt không nói gì. Ông Bứa cau có:
- Mày trẻ người, non dạ nên còn ngu lắm con ạ! Chuyện này có gì mà vui mừng. Chỉ là một việc thật đáng buồn thôi có phải không ông Thực?
Lão Thực gật đầu. Đúng! Đây chỉ là một chuyện đáng buồn và đau xót cho xã Quan Sơn. Anh chủ tịch xã ấy còn là con của một người bạn chiến đấu trong đội du kích ngày xưa của lão nữa. Lão Thực đặt bát nước chè xanh đang uống xuống chiếu. Ngụm nước chè tươi lão vừa nuốt sao mà đắng thế. Chép miệng mấy lần vẫn thấy đắng ngắt.
Khi mọi người vẫn còn ồn ào bàn chuyện ông chủ tịch và mấy cán bộ xã bị công an bắt thì lão Thực đứng dậy. Lão chậm chạp bước lại chỗ chiếc võng của mình đang mắc giữa gốc cây quéo già và cây vải non mới cho quả vụ đầu. Lão ngả lưng xuống chiếc võng gai khẽ đu đưa. Lão nằm vắt tay lên trán suy nghĩ về câu chuyện thằng Nhân vừa kể. Lão cứ nghĩ lan man đến chuyện ngày trai trẻ, nhớ về những chặng đường đời gập ghềnh mình đã trải qua. Trời đã quá trưa ngả sang chiều. Lẻ tẻ có những người rời khỏi khu vườn sinh thái của lão về để đi làm đồng buổi chiều. Mọi người chào nhưng không thấy lão Thực đáp lời như những bữa trước. Họ nghĩ là lão đã ngủ hoặc đang mải suy nghĩ. Sự việc thằng Nhân thông báo đáng để suy nghĩ lắm chứ? Đúng là lão Thực đang suy nghĩ. Chiếc võng thôi đung đưa. Mọi người đã ra về hết. Khu vườn của lão Thực trở nên yên ắng. Lão Thực thấy lơ mơ. Người lão cứ bồng bềnh lâng lâng. Tư duy lão lúc rành mạch, lúc lại rất mông lung...
Chợt có tiếng ậm è phía cổng vườn. Lão Thực liền ngồi dậy trên võng. Có một người nhấc cánh cổng bằng tre bước vào. Lão Thực nheo mắt nhìn. Đó là một người đàn ông đã luống tuổi. Hắn ta đi vào vườn. Một bên sườn hắn đeo chiếc xà-cột đen, một bên hông đeo chiếc đài Xiêng-mao. Lão Thực vô cùng kinh ngạc khi nhận ra đó chính là đội trưởng đội cải cách ruộng đất và cũng là chủ nhiệm hợp tác xã nông nghiệp Quyết Tiến Hà Văn Bồi. Lão lập bập hỏi:
- Ông… ông vẫn còn sống à?
- Vẫn còn… vẫn còn…
- Nhưng hồi ấy ông đã bị sét đánh chết giữa cánh đồng rồi cơ mà?
- Sét đánh chết thế nào được tôi. Những người như tôi thì chết làm sao được chứ! Tôi sẽ còn sống mãi, tồn tại mãi mãi… mãi... mãi... ha… ha… ha…
Ông này đúng là ma rồi. Lão Thực hoảng quá. Lão đứng bật ngay dậy đảo người quờ tay tìm cái gậy vẫn dựng ở gốc cây quéo già. Nhưng khi lão Thực vừa vớ được cái gậy quay lại thì đã không thấy đội trưởng đội cải cách ruộng đất Hà Văn Bồi đâu nữa. Ông này biến hóa nhanh thật! Hay đây chỉ là một giấc mơ thôi. Lão Thực nghĩ. Lão đưa tay lau những giọt mồ hôi túa ra ướt đẫm trên trán. Lão vừa định nằm xuống võng thì lại giật nảy mình nhìn thấy trong võng đã có một người đang nằm. Là một người con gái. Lão sửng sốt khi nhận ra đó là cô Thoan. Cô Thoan cũng đã bị bọn gặc bắn chết rồi cơ mà. Sao cô Thoan lại còn nằm được trên võng thế này. Lão hốt hoảng khi thấy trên người cô không có một mảnh vải. Mà hình như cô Thoan còn mỉm cười với lão nữa. Thôi đúng là đã gặp ma thật rồi. Lão vội lùi lại thì lại chạm luôn vào một người khác đang đứng ngay sau lưng mình. Đó là cô Lý-người vợ của lão đã chết từ lâu. Cô Thoan và cô Lý mỗi người nắm lấy một tay lão. Họ nhấc bổng lão lên, dìu lão bay lượn khắp khu vườn, có lúc lên trên cả ngọn cây, ngọn tre. Lão Thực nhìn xuống thấy ngôi nhà mình nằm giữa vườn cây cối xanh tốt. Lão thích quá. Đây là lần đầu tiên trong đời mình lão biết bay. Nhưng lão chợt giật mình khi trông thấy cái Lan, con gái của lão đang đứng gào khóc giữa sân nhà mình. Sao hôm nay là ngày giữa tuần mà con bé về nhà làm gì thế nhỉ? Lão nghĩ chắc là nó đi công tác qua nên tranh thủ ghé về thăm lão. Nhưng có chuyện gì mà nó lại kêu khóc thảm thiết thế? Lão nhìn thấy ông Bứa quần ống thấp ống cao hớt hải chạy sang. Rồi ông Cành, ông Thuấn, chú Tạo, thằng Nhân, những người hàng buổi trưa vẫn kéo đến mắc võng nhờ trong khu vườn của nhà lão từ các hướng cũng đang nhốn nháo kéo nhau vào nhà lão. Có cả bà Nhâm là y sĩ về hưu đeo cái túi lạch bạch chạy đến. Họ theo cái Lan chạy ra vườn. Có việc gì thế nhỉ. Lão Thực vội trằn người vùng vẫy thoát khỏi hai người phụ nữ để nhao xuống xem có việc gì mà mọi người lại nhốn nháo, hốt hoảng đến vậy. Lão cũng hớt hải chạy theo mọi người vào trong khu vườn cây nhà mình. Họ lao lại chỗ gốc cây quéo già, nơi lão vẫn thường mắc võng ngủ trưa. Mọi người xúm xít quanh cái võng đay của lão. Có nhiều tiếng kêu khóc, hốt hoảng. Lão vội kiễng chân lên ngó qua đầu mấy người để nhìn xem đã có chuyện gì đã xảy ra. Lão sửng sốt khi trông thấy người đang nằm trên võng lại chính là mình. Mọi người hối hả giục nhau làm hô hấp nhân tạo, tiêm thuốc trợ tim cho lão. Song lão vẫn nằm thẳng đuồn đuột trên võng. Thằng Nhân vội xốc lão lên vai. Nó cuống quýt bảo:
- Cụ Thực bị cảm rồi! Phải đưa ngay cụ ra trạm xá xã cấp cứu!
- Đúng... nhanh... nhanh lên kẻo chậm mất...
Mọi người và cái Lan vội chạy theo thằng Nhân. Ông Bứa luống cuống đỡ hai chân cho lão. Họ chạy tắt qua cánh đồng vừa xong gặt để đến trạm y tế của xã Quan Sơn. Lão Thực cũng vội hớt hải chạy theo mọi người. Vừa chạy, lão vừa cố gào lên thật to gọi họ:
- Tôi đang ở đây cơ mà! Không phải đưa ra trạm xá cấp cứu đâu!
Nhưng mọi người hình như không ai nghe thấy tiếng kêu của lão. Họ vẫn hộc tốc cõng lão chạy đi. Lão đành đuổi theo phía sau họ. Lão bị vấp vào những gốc rạ lổn nhổn trên cánh đồng ngã dúi dụi. Những gốc rạ cứ vướng víu níu chân lão lại. Lão Thực bị tụt dần lại phía sau đoàn người. Lão mệt quá. Lão ngồi bệt xuống bờ ruộng thở dốc. Nhưng không thể để đám người kia bỏ xa mình, lão lại vội đứng dậy lật đật chạy theo họ. Đoàn người đã bỏ xa lão quá rồi. Trông họ chỉ còn như những cái chấm nhỏ li ti ở phía cuối cánh đồng. Lão hoảng quá lại định hét lên thì chợt thấy người nhẹ bẫng như có ai nhấc mình lên trên không trung. Hoá ra đó lại là cô Thoan và cô Lý. Họ dìu lão bay sát ngay phía trên đầu đoàn người đang cõng lão đi dưới cánh đồng đầy rơm rạ. Chuyện này là thực hay mơ thế này! Lão cấu mạnh vào má mình một cái nhưng không thấy đau. Lão chợt hiểu hoá ra đây không phải là một giấc mơ...
Hà Nội, 21/7/2011
© Tác giả giữ bản quyền.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 09.01.2014
Cập nhật lại ngày 08.8.2015
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại. _______________________________________________
Người thổi tù và trên bến sông
Lão Vận bước vào chợ. Đàn nhặng xanh thấy động vù vù tạo nên những âm thanh u u u... Buổi chiều chợ không họp, chỉ có mấy phản thịt phía ngoài cổng của những tay chuyên giết mổ là bán cả ngày. Lão Vận ném cái chổi và cái xẻng cùn xuống đất. Việc đầu tiên của lão là cầm cái bao tải rách đi thu hồi "chiến lợi phẩm”. Đó là những thứ mà những người mua bán buổi sáng còn bỏ lại. Lão nhặt những cái túi ni lông còn lành đem ra bến sông giặt sạch bán lại cho những người chuyên bán cá, bán cua đựng cua cá cho khách hàng. Hạt bí, hạt mít lão để riêng đem rửa sạch, phơi khô, tích lũy phòng khi giáp hạt hết gạo. Hạt nhãn, hạt vải lão nhặt đem lên đồi hoặc ngoài bãi hoang vùi xuống đất mong sẽ có hạt nảy thành cây, đơm hoa, cho quả.
Thông tin liên hệ: (VanDanViet) Sinh năm: 1956
Quê quán: Thị trấn Hoa Sơn, Lập Thạch, Vĩnh Phúc
Hiện công tác tại: Phòng Thông tấn-Báo chí quân đội
Địa chỉ: 61- Cửa Đông-Hà Nội,
ĐT: 098.6676547
_____
NGƯỜI THỔI TÙ VÀ TRÊN BẾN SÔNG
Lão Vận bước vào chợ. Đàn nhặng xanh thấy động vù vù tạo nên những âm thanh u u u... Buổi chiều chợ không họp, chỉ có mấy phản thịt phía ngoài cổng của những tay chuyên giết mổ là bán cả ngày. Lão Vận ném cái chổi và cái xẻng cùn xuống đất. Việc đầu tiên của lão là cầm cái bao tải rách đi thu hồi "chiến lợi phẩm”. Đó là những thứ mà những người mua bán buổi sáng còn bỏ lại. Lão nhặt những cái túi ni lông còn lành đem ra bến sông giặt sạch bán lại cho những người chuyên bán cá, bán cua đựng cua cá cho khách hàng. Hạt bí, hạt mít lão để riêng đem rửa sạch, phơi khô, tích lũy phòng khi giáp hạt hết gạo. Hạt nhãn, hạt vải lão nhặt đem lên đồi hoặc ngoài bãi hoang vùi xuống đất mong sẽ có hạt nảy thành cây, đơm hoa, cho quả.
Sau khi nhặt nhạnh khắp chợ, lão bắt đầu quét dọn. Lão quét kỹ từng dãy lều quán, đùn rác về phía cuối chợ. Chợ quê nghèo, chỉ là những cái lán che bằng rơm rạ, thấp lè tè. Cách nhật chợ mới họp một phiên. Người ta gánh hàng đến, trải một mảnh ni lông ra bày bán. Những thứ thải loại, rác, vỏ dưa, vỏ dừa vứt ngay tại chỗ. Lão Vận quét dọn cật lực hơn một ngày chợ mới sạch sẽ. Rồi chợ lại họp, rác rưởi lại ngập ngụa, lão lại dọn dẹp vào buổi chiều và cả hôm sau ngày chợ không họp. Cứ như thế, lặp đi, lặp lại công việc của đời người quét chợ.
Thực ra, lão Vận mới chỉ làm người quét chợ được độ bảy, tám năm nay. Trước kia, lão là người chở đò ngang sông Đáy. Dòng sông Đáy mỏng manh như một sợi chỉ nằm dưới chân núi Tam Đảo. Nhưng khi mùa mưa, nước lũ từ thượng nguồn đổ về, dòng sông phình ra, cuồn cuộn. Lúc mùa khô, những tháng cuối năm thì nước lại trong veo, sâu chỉ săm sắp bắp chân nhìn rõ cả cá, tôm và đá sỏi dưới đáy. Ngày ấy, lão Vận cũng chỉ chèo đò theo mùa nước. Mùa khô, lão lôi con thuyền lên bãi rồi vào rừng chặt củi bán kiếm tiền đong gạo. Khi người ta bắc một cây cầu to sừng sững ngang sông thì lão Vận thành người thất nghiệp. Lão bán con thuyền nhỏ cho những người nuôi cá bè, rồi lang thang đi làm thuê, gánh nước thuê cho mấy bà bán bún phở trong chợ. Chợ quê ngày ấy không có người quét "chuyên nghiệp” như bây giờ nên rác rưởi ngập ngụa. Mấy bà bán hàng thường phải thuê lão quét dọn quán của mình. Rồi gần như cả chợ mọi người đều thuê lão quét tước chỗ ngồi bán hàng.
Dần dà, lão trở thành người quét chợ thuê. Tiếng là thuê, nhưng không phải ai cũng trả tiền cho lão, mà có cũng chẳng đáng kể. Bà bán cá thường trả công lão cái đầu cá mè. Anh hàng thịt đưa lão mẩu xương, hôm nào hứng lên cắt cho một đoạn dồi dài độ gang tay. Thường là người ta cho lão hai, ba trăm đồng. Nhưng phần lớn là làm ngơ, mặc dù buổi chợ, họ vẫn nhìn thấy lão gánh nước thuê vào các hàng quán. Lão Vận cũng chẳng đòi hỏi. Trước đây, lão quét thuê từng chỗ bán hàng cho các chủ sạp thì họ dứt khoát phải trả tiền. Bây giờ lão quét cả chợ thì lại như làm không công. Gần đây, chắc nhiều người có ý kiến, ông chủ tịch xã cân nhắc, nâng lên đặt xuống mãi mới quyết định "trả lương” cho lão bằng mười ki-lô-gam gạo một tháng. Nghe ra thì có vẻ to nhưng kỳ thực cũng chỉ bằng ba mươi nghìn đồng. Thôi thế cũng tốt, lão Vận có một khoản thu ổn định, đủ ăn, đỡ lận đận khi giáp hạt. Đời lão cũng đã xế chiều rồi, cần gì hơn nữa đâu.
Quét xong tất cả các dãy quán trong chợ thì trời đã sập tối, lão Vận thu các thứ "chiến lợi phẩm” ra về. Đống rác góc chợ ngày mai lão mới đốt hoặc gánh ra đổ ngoài bờ sông. Lão xách cái đầu cá lần bước về nhà. Lão thôi chở đò nhưng túp lều của lão vẫn ở trên bến sông.
Về đến gần nhà, lão huýt sáo và gọi:
- Anh Cún đâu rồi!
- Hực...- Một con chó to từ trong nhà phóng ra vẫy đuôi mừng rối rít. Nó ngoạm lấy ống quần lão kêu ư ử. Lão Vận vỗ về:
- Đói lắm rồi hả! Để yên, tao nấu cơm cho mà ăn. Hôm nay có cái đầu cá trắm của bà Thơm cho đây này!
Con chó phóng lên hè. Nó chồm hai chân trước đẩy cánh cửa mở ra rồi quay lại cào cào xuống đất ý mời lão vào nhà. Lão Vận châm đèn, tìm nồi nấu cơm. Con Cún cứ luẩn quẩn quanh lão. Thấy lão nhặt rau, nó cũng ngoạm một cọng rau muống cắn ra làm mấy đoạn. Lão vỗ vỗ vào đầu nó an ủi:
- Yên nào! Mày không làm được đâu!
Lão quay lại đun củi vào bếp. Con chó nhổm dậy. Nó dùng miệng ngoạm một cành củi đủn vào bếp. Đôi mắt nó sáng long lanh nhìn lão Vận như muốn hỏi làm như vậy có được không. Lão Vận gật gật đầu. Con Cún rên lên ăng ẳng vẻ phấn khởi lắm.
Cơm chín, lão Vận chia ra làm hai phần. Một loa cơm của lão. Phần còn lại lão đổ vào cái lon sành cho con Cún. Cái đầu cá nấu canh lão chỉ gỡ được một chút thịt còn lại cho con chó cả. Con Cún vừa ăn vừa gừ gừ trong miệng. Nó có vẻ đói lắm. Cả ngày nó chỉ được ăn một bữa. Buổi sáng trước khi ra chợ, lão dặn nó: "Trông nhà nhé!” rồi đi. Buổi trưa lão ở luôn ngoài chợ. Ai cho gì, lão ăn nấy, khi thì bắp ngô, lúc khúc sắn luộc. Con Cún ở nhà, nó loanh quanh chui ra, chui vào túp lều. Đói quá thì nó lại lôi mấy khúc xương trâu, xương lợn khô khốc ra gặp suông để đánh lừa cái bụng. Biết thế nhưng lão Vận không thể đưa con chó ra chợ được. Nó to lớn chạy lông nhông ai cũng khiếp, với lại lão sợ nhất là bọn chuyên bắt trộm chó. Bữa tối, bao giờ lão cũng dành phần cơm nhiều hơn cho nó. Vài năm gần đây lão mới được ăn cơm. Trước kia khẩu phần của lão chủ yếu là sắn. Nồi cơm chỉ lơ thơ vài hạt gạo bám vào miếng sắn. Tàn tật, ốm yếu như lão có cái mà ăn là may lắm rồi. Con chó hình như cũng hiểu lão nghèo nên cho gì nó ăn nấy. Nồi cơm, nồi canh lão để ngay dưới đất nhưng dù có đói đến mấy nhưng không bao giờ nó lén ăn vụng. Nó là con vật trung thành. Lão Vận bảo nó coi nhà- mặc dù nhà lão chẳng có thứ gì đáng coi- thì đố ai dám lại gần túp lều của lão. Ngày chợ không có phiên, lão Vận mới cho nó đi theo. Trong khi lão dọn dẹp, quét tước thì con Cún lùng sục khắp chợ đuổi chuột hoặc tìm kiếm những khúc xương mà cánh giết mổ quăng ra đâu đó.
Lão Vận chẳng còn vợ con. Vợ con lão chết trong trận bom bọn Mỹ rải xuống bến sông khi lão đang chặt củi trên rừng. Lão sống thui thủi một mình. Cạnh hố bom, lão chỉ đủ sức dựng lên một căn nhà nhỏ, gọi là túp lều cũng đúng. Con Cún là bạn thân thiết duy nhất của lão Vận. Lão sống gần như cô độc ngay cái làng mà thời mở cửa đang dần dần chuyển thành thị trấn này. Xung quanh túp lều của lão, những ngôi nhà cao tầng thi nhau mọc lên. Người ta bắt đầu ở sang, ăn sang và chơi sang nên càng ít người muốn gần với kẻ lam lũ, bần cùng. Trông lão lại có vẻ hơi dị dạng nên người ta càng ngại tiếp xúc. Chân phải lão không biết bị tật hay bị thương nên đi lại tập tễnh, khó khăn. Khi gánh nước thuê, thùng nước sóng sánh trào ra gần hết, nhưng khi quét chợ thì cái bước thấp, bước cao của lão lại làm cho nhát chổi dài hơn. Cùng trang lứa với lão bây giờ đều khá giả. Tuy họ không coi thường nhưng cũng chẳng ai muốn chuyện trò với lão. May mà lão còn có con chó làm bạn.
Con chó là do lão nhặt được từ mấy năm trước. Hôm ấy, trời đã sâm sẩm tối, lão vẫn lội xuống sông giặt mấy cái túi ni-lông. Mưa ở thượng nguồn nên nước sông đang lên. Lúc lão đang chuẩn bị về thì chợt có một cái bao tải buộc túm miệng từ đâu trôi đến rạt vào chân lão. Lão giật bắn người vì trong đó có cái gì ngọ nguậy. Lão loạng choạng bước vội lên bờ, thở dốc. Ngày xưa bên kia sông là vùng tề, bọn giặc bắt được cán bộ du kích thường đưa lên phía đập nước tra tấn dã man. Có khi người bị đánh còn ngắc ngoải chúng cũng nhét vào bao tải thả trôi sông. Những xác người lập lờ dạt vào bến nước. Nhưng bây giờ là thời khác rồi. Lão Vận trấn tĩnh lại. Lão nhặt cành cây khều cái bọc vào lôi lên mở dây buộc dốc ngược. Lẫn trong đám giẻ rách tuột ra một con chó nhỏ. Nó ướt sũng nhưng vẫn còn ngọ nguậy. Lão đem nó về nhà đặt cạnh bếp lửa. Một lúc sau nó bắt đầu rên ư ử rồi ngóc cổ dậy. Nó nhìn lão, mắt chớp chớp vẻ biết ơn. Nhìn thân hình con chó còm nhom, sần sùi ghẻ lở, lão hiểu vì sao họ đã nhét nó vào bao vứt xuống sông. Lão Vận vét cơm nguội cho nó ăn. Hôm sau, lão xin diêm sinh về bôi trị ghẻ cho nó. Con chó ở với lão Vận từ đó. Mặc dù cũng bữa đói, bữa no, miếng được, miếng mất như lão nhưng con chó vẫn hồi sức và lớn nhanh. Sau một thời gian nó đã to lớn lộc ngộc. Nó khôn lắm. Có lần bọn trộm chó đem bả ném đợi nó ăn ngã xuống là tuồn vào bao tải đem đi. Nhưng nó chỉ ngửi mà không ăn. Ai cho cái gì nếu không được sự đồng ý của chủ thì nó không bao giờ tự ý ăn cả. Thấy con chó khôn, có người muốn mua, nhưng lão không chịu.
Một đêm đầu mùa hạ, trăng sáng nhàn nhạt. Sau những cơn mưa liên tiếp, nước sông Đáy bắt đầu dâng lên cao ngập dần những bãi bồi ven bờ nơi mà khi mùa cạn người ta thường trồng ngô. Từng đàn cá trôi, cá chép bắt đầu kéo lên bãi bồi vật đẻ. Tiếng cá quẫy đành đạch. Chỗ nước nông, những con cá to hở cả lưng hoặc nằm nghiêng trắng lốp dưới ánh trăng mờ. Lão Vận gỡ cái nơm treo ở đầu nhà xuống, tìm một sợi dây để xâu cá. Trước khi ra bãi sông, lão còn rút chiếc tù và cài trên vách rúc lên mấy hồi báo cho dân làng biết có cá lên bãi.
Lão Vận tay cầm đuốc, tay cầm nơm tập tễnh đuổi theo những con cá đang rạch phành phạch vào bãi bồi ngập nước. Lão chụp luôn được mấy con cá chép cỡ độ bàn tay. Xâu vội mấy con cá buộc vào thắt lưng, lão xách nơm đuổi theo một con cá khá to đang rạch ra phía sông. Lão giơ nơm chụp mạnh. Bỗng lão thấy hẫng một cái, nước ngập lút đầu. Lão bị trượt xuống một cái hố sâu mà khi sông cạn người ta đào moi lấy sỏi. Lão chới với buông cái nơm, bó đuốc tắt ngấm. Dòng nước xoáy cuốn ngay lấy lão. Lão cố ngoi lên, ú ớ kêu cứu. Bãi sông vắng làm gì có người mà kêu. Lão cố vùng vẫy. Nhưng cái chân dị tật của lão bỗng nhói lên thẳng đơ. Lão bị dòng nước xiết lôi dần ra xa bờ.
Giữa lúc đó thì nghe "ùm” một tiếng như có người lao xuống nước. Con Cún đã đi theo lão từ lúc nãy, thấy chủ bị nạn nó liền lao xuống cứu. Nó bơi ngay đến chỗ lão. Nó ngoạm vào áo lão, cố kéo lão về phía bờ sông. Lão Vận ôm lấy con chó. Nó bơi rất khoẻ. Vào gần bờ, lão Vận túm được một cành cây mọc là là mặt nước. Con chó cũng vùng vẫy cố bơi vào bờ. Nhưng nó không có tay để túm lấy ngọn cây như lão Vận. Xoáy nước đẩy nó ra giữa sông.
Lão Vận lóp ngóp bò được lên bờ ngồi thở rốc. Sực nhớ đến con Cún, lão hốt hoảng gào lên: "Cún... ơi! Cún... ơi...”. Hình như có tiếng con chó kêu "ăng ẳng” mãi giữa sông, lẫn trong tiếng nước chảy ào ào. Lão Vận tập tễnh lần theo mép nước, xuôi phía hạ lưu. Vừa đi lão vừa gọi: "Cún ơi... mày đâu rồi... Cún ơi...”. Tiếng lão nấc lên, yếu dần. Lão đau đớn thất thểu đi dọc bờ sông. Vừa đi lão vừa khóc. Lão khóc không thành tiếng. Đây có lẽ là lần thứ hai trong đời lão khóc. Lần thứ nhất là khi nhà bị bom, lão bới đất, tìm gom từng mảnh thi thể của vợ con. Lão đi đến mỏi chân theo dòng nước chảy. Dòng sông Đáy mỏng manh giữa những lũy tre xanh khi mùa cạn bây giờ đục ngầu, sôi sùng sục, hung dữ. Lão Vận ngồi phệt xuống sát mép nước. Lão cởi xâu cá vẫn đeo lủng lẳng bên hông ném xuống sông. Chưa bao giờ lão thấy căm thù dòng sông như thế.
Trời đã sáng hẳn, không hy vọng tìm thấy con chó, lão Vận đành quay về. Lão bước thập thõm trên con đê gồ ghề. Quần áo lão tả tơi, ướt sũng. Lão vừa đi vừa lầm rầm gọi con Cún. Nước mắt lão giàn giụa. Lão giơ tay chùi mặt. Lũ trẻ con chăn trâu trên đê rồng rắn chạy theo lão í ới:
- Ê... Ê... có một ông điên chúng mày ơi!
Mặc lũ trẻ ném bùn đất vào lưng, lão Vận cứ lầm lũi đi. Vừa về đến nhà lão ngã dụi xuống thềm. Lão lập cập cố cởi bộ quần áo ướt sũng và lấm lem bùn đất rồi lết lên giường.
Lão ốm mấy ngày, bỏ cả quét chợ.
Lão thương tiếc con chó. Lão cứ tự trách mình ham cá mà đã hại chết nó. Bữa bữa lão vẫn nấu nồi cơm nhỏ rồi xẻ làm đôi. Lão nhai trệu trạo vài miếng. Lon cơm phần của con chó sáng nào lão cũng phải bưng ra bến sông đổ xuống nước cho đàn cá mương đang lau nhau tìm mồi. Đêm chợt có tiếng chó kêu là lão lại bật dậy dỏng tai lắng nghe, chờ đợi. Một lần nhặt được khúc xương còn dính nhiều thịt lão đã bật khóc giữa chợ vì xót thương con chó. Lão như người mất hồn. Bà hàng bún mắng: "Lão này mắt mũi để đâu mà gánh nước đổ tràn cả bể, ướt hết chỗ ngồi thế này!”. Bà hàng cá lại bảo: "Lão hồi này sang gớm nhỉ, cho đầu cá không thèm lấy!”. Gã bán thịt thì vô tâm: "Bố cứ đưa con Cún ra đây, con mà làm món nhựa mận thì hết ý...”.
Buổi chiều quét xong chợ, lão Vận thấy chân tay rã rời. Lão chẳng buồn thu nhặt các thứ "chiến lợi phẩm” như trước nữa. Lão đùn tất cả rác ra cuối chợ châm lửa đốt. Khi lão vừa về đến nhà thì có tiếng kẻng báo động gõ nhịp ba dồn dập "keng keng keng... keng keng keng... keng keng keng...”. Tiếng người kêu dáo dác khắp thị trấn:
- Cháy chợ... cháy chợ rồi!...
Mọi người lao ra phía chợ. Lão Vận hốt hoảng vứt rá gạo tập tễnh chạy theo. Lửa đang cháy ngùn ngụt. Ngọn lửa hả hê tung hoành trên những mái lều quán lợp bằng tranh cỏ khô nỏ. Tiếng tre nứa nổ đôm đốp. Nguyên nhân cháy là do gió xoáy thốc vào đống rác lão Vận đốt ở cuối chợ đưa tàn lửa lên mái lều quán.
Mọi người xông vào chữa cháy. Nhưng gió to, lại không tiện nước nên mấy dãy quán liền kề nhau cháy trụi. Những dãy hàng quán xa hơn chưa bén lửa thì quá trình chữa cháy người ta rút lấy cây để dập lửa hoặc đạp đổ để tránh cháy lan. Thành thử đến khi dập tắt được lửa thì các quán chợ cũng tan tành hết.
Trong đám người chữa cháy nhốn nháo, chợt có tiếng ai đó hét to:
- Phải lập biên bản, bắt đền lão Vận!
- Đúng đúng! Lôi cổ lão ấy ra đây! Lão làm ăn thế à!
Lão Vận bị túm cổ lôi xềnh xệch ra bãi trống giữa chợ. Lão run cầm cập, mặt mũi tái nhợt.
Giữa lúc nhiều người đang xúm xít xung quanh lão Vận giằng xé, xỉa xói, mắng chửi, dọa đánh thì có tiếng quát to:
- Buông... ngay... ông… ấy… ra!
Gã bán thịt gạt đám đông xông vào. Đầu gã tóc đang cắt dở nham nhở, tay gã lăm lăm con dao chọc tiết lợn nhọn hoắt. Gã bợp tai thằng đang túm giữ lão Vận. Thằng này kêu "á” một tiếng rồi lủi mất. Gã bán thịt giằn giọng:
- Muốn bắt đền hả? Lên xã mà bắt đền! Bao năm nay các ông ấy thu đủ loại thuế, lệ phí, bao nhiêu lần hứa xây dựng chợ, nhưng đến giờ đã thấy động tĩnh gì chưa. Chợ với chiếc, mấy túp lều rơm rạ xiêu vẹo mưa gió táp mặt, mấy lần tôi định phóng một mồi lửa cho đỡ bẩn mắt. May mà lần này nó cháy! Càng tốt.
Nhiều người nhao nhao hưởng ứng theo gã bán thịt. Ông chủ tịch và anh trưởng công an xã vừa đến thấy thế liền quay xe máy đi luôn.
Sau vụ cháy chợ, lão Vận cũng thất nghiệp luôn. Người ta không thuê lão quét chợ, gánh nước nữa. Lão mò cua, kiếm cá, mót khoai, mót lúa kiếm bữa qua ngày. Rồi lão ốm nặng. Mấy bà hay buôn bán ở chợ nghe tin cũng gửi cho lão vài cái bánh cuốn, mấy quả chuối.
Có lẽ lão Vận chết phải đến nửa ngày dân làng mới biết do lũ trẻ con gọi không thấy lão trả lời đã báo cho ông trưởng thôn. Lúc chuẩn bị khâm liệm, người ta thu dọn cái quan tài gỗ tạp đóng sẵn kê giữa nhà thì phát hiện có một gói giấy nhỏ. Đó là một gói tiền. Đếm được hai triệu ba trăm nghìn đồng. Toàn là bạc lẻ. Ai đó nói: "Lão này thế mà giàu và kín tiếng quá!”. Rồi lại có người kêu lên: "ối! Còn có cả thư lão để lại đây này!”.
Ông trưởng thôn cầm lá thư tìm thấy trong quan tài lên đọc. Chữ lão Vận viết ngoệch ngoạc, xiêu vẹo:
Kính thưa bà con!
Tôi ngàn lần xin bà con đại xá cho tội làm cháy chợ.
Tôi gom góp được ít tiền, năm trăm nghìn gọi là có chén rượu nhạt cho anh em đào huyệt và vài miếng trầu chay để bà con đưa tôi ra đồng.
Còn một triệu tám trăm nghìn đồng, là tiền xã trả công quét chợ năm năm qua, tôi không dùng đến, xin được góp vào xây dựng lớp mẫu giáo thôn ta.
Vô cùng đội ơn bà con, làng xóm.
Kính thư
Nguyễn Văn Vận
Đám ma lão Vận khá đông. Nghĩa tử là nghĩa tận. Nhiều người bỏ cả buổi chợ để đi đưa đám lão.
Lão Vận chết được ba hôm thì con Cún đột nhiên trở về.
Đêm ấy bị nước lũ cuốn ra giữa sông, nó cố vùng vẫy, may bám vào được một đoạn cây chuối. Dòng nước đưa nó về mãi phía hạ lưu cho đến khi dạt vào một bãi cát bồi. Con Cún lết lên bờ, thoát chết. Nó liền tìm đường quay trở về. Có lẽ nó đã phải vượt đến cả trăm cây số qua bao nhiêu thành phố, thị xã, làng mạc. Vừa đi vừa kiếm ăn, mấy phen nó suýt bỏ mạng vì bọn săn trộm chó. Nó bị bọn chúng đánh què một chân, nên bước đi tập tễnh.
Cứ lần hồi ngược dòng sông, con Cún về được đến nhà. Vừa tới cửa, nó đã rên lên ư ử sung sướng, đuôi vẫy rối rít. Chắc nó nghĩ lão Vận đang chờ nó trong nhà. Nhưng rồi nó chợt nhận ra có điều gì khác lạ. Nó dùng mõm ẩy cánh cửa lao vào nhà. Nó khịt khịt sục mũi vào đống tro lạnh trong bếp, ngửi mấy cái quần áo cũ của lão Vận treo trên vách. Rồi nó chạy ra giữa nhà. Nó chợt nhận ra chiếc áo quan không còn kê ở đấy nữa. Dưới gầm chiếc quan tài ấy là chỗ nó vẫn nằm coi nhà mỗi khi ông chủ ra chợ.
Con Cún hộc lên một tiếng, co rúm lại. Rồi nó tru lên đau đớn.
Mấy đêm liền nghe tiếng con chó tru lên rên ri trong căn nhà lão Vận, đám thanh niên bảo nhau: "Con chó điên rồi! Đập chết đi kẻo nó đớp vào ai thì khốn”. Thế là chúng hò nhau vác gậy gộc, xẻng cuốc bao vây nhà lão Vận. Con chó đứng trên thềm nhe răng, mắt gườm gườm nhìn đám thanh niên. Nó có vẻ gầy hơn nhưng đôi mắt thì sáng quắc. Khi đám thanh niên ập vào thì nó phóng vút xuống sân, làm một thằng hoảng quá vứt gậy ù té chạy. Con chó lao lên bờ đê. Bọn thanh niên hò hét, rầm rập đuổi theo. Con chó hình như quên hẳn cái chân đau, nó phóng vun vút về hướng đồi cây, nơi xã dành làm nơi yên nghỉ cho những người quá cố. Vào trong nghĩa trang, nó vừa ngửi vừa chạy và đến đúng mộ lão Vận. Nó nằm phục xuống cạnh ngôi mộ mới. Đám thanh niên hò hét xông đến. Con chó vẫn nằm yên mặc mọi người áp sát hầm hè, vây quanh. Đám thanh niên dừng lại, gậy gộc lăm lăm trong tay. Giữa lúc đó thì ông già quản trang từ đâu hớt hải chạy đến. Ông hổn hển gọi:
- Đừng đánh nó các cháu ơi! Nó không bị điên đâu. Nó là con vật có tình, có nghĩa với con người đấy các cháu ạ, đừng giết nó mà phải tội...
Nghe người quản trang năn nỉ, can ngăn mãi, đám thanh niên mới chịu rời khỏi nghĩa trang. Lúc này con Cún mới đứng lên. Nó đi quanh mộ lão Vận mấy vòng, vừa đi vừa rên ư ử. Có lẽ nó khóc.
Mấy ngày sau, vẫn thấy con chó quanh quẩn chỗ mộ lão Vận. Người quản trang để ít cơm trên miếng lá chuối nhưng nó không ăn. Nó chỉ liếm chút nước đọng trong mảnh bát vỡ. Đêm đêm, người ta nghe tiếng kêu rền rĩ của nó trong nghĩa trang.
Con Cún nhịn ăn mà chết.
Người quản trang đào một cái hố phía dưới mộ lão Vận rồi trải miếng ni lông rách đặt xác nó xuống lấp đất. Ông đắp cho con vật trung thành một nấm mộ nhỏ.
Đoạn kết
Sau vụ cháy, xã đã đầu tư mấy trăm triệu đồng xây lại chợ. Các dãy hàng quán bây giờ đều xây trát, vôi ve, lợp ngói khang trang. Người ta cũng thành lập một tổ thu gom rác thải và quy định các hộ kinh doanh phải nộp lệ phí vệ sinh hẳn hoi, không có chuyện thù lao được chăng hay chớ như thời lão Vận còn quét chợ.
Một hôm, có chiếc xe du lịch sang trọng rẽ vào trụ sở uỷ ban nhân dân xã. Bước xuống xe là một ông cán bộ tóc bạc trắng. Có cả ông bí thư huyện uỷ đi cùng. Ông ta là một vị bí thư tỉnh uỷ một tỉnh phía Nam. Ông ra thăm Đền Hùng. Sực nhớ lại những ngày xưa hoạt động ở vùng Sơn Dương, Vĩnh Yên nên ông bảo lái xe ghé qua Lập Thạch. Câu chuyện của ông lớp cán bộ xã bây giờ không ai biết. Ông kể chuyện ngày ấy hoạt động trong lòng địch. Từ Hà Nội ông được lệnh lên Việt Bắc nhận nhiệm vụ mới. Ông qua đò sông Đáy và nghỉ lại một cơ sở bên này sông. Bọn chỉ điểm đã phát hiện nơi ông đang ở. Tên quan ba Pháp dẫn một tiểu đội biệt kích đóng giả làm một hiệp thợ mộc. Chúng bọc súng vào bao tải, gọi đò sang sông định tập kích bất ngờ.
Phát hiện ra vẻ đáng ngờ của toán người, nhất là tên mà chúng gọi là thợ cả trùm khăn kín đầu nhưng vẫn thòi ra cái mũi lõ, anh lái đò vẫn bình tĩnh chở chúng qua sông. Khi bọn chúng lên bờ, lách cách cởi các bao đựng súng thì anh đẩy thuyền ra giữa sông. Anh rút chiếc tù và cài trong mui thuyền ra rúc lên liên hồi báo động. Dân làng vốn rất cảnh giác vì ở sát vùng Tề nên biết là có biến. Ông cán bộ kịp chạy thoát. Bọn địch bị lộ, chúng điên cuồng xả đạn vào làng và bắn ra sông chỗ con thuyền làm anh lái đò bị trúng đạn gẫy chân. Sau đận ấy, ông lên chiến khu an toàn. Giải phóng Điện Biên Phủ, ông vào miền Nam chiến đấu, rồi làm cán bộ lên đến chức bí thư tỉnh uỷ. Sắp nghỉ hưu, ông ra thăm lại miền Bắc. Chợt nhớ lại tiếng tù và của người lái đò, ông tìm về bến sông xưa.
Nghe câu chuyện của ông bí thư tỉnh uỷ, mọi người đều đoan chắc người lái đò dũng cảm thổi tù và ngày ấy đích thị là lão Vận quét chợ.
Ông bí thư tỉnh uỷ cùng mọi người đến nhà lão Vận. Trên cái bàn thờ tàn lạnh hương nhang, họ tìm thấy chiếc tù và bằng sừng trâu. Ông bí thư tỉnh uỷ trân trọng cầm chiếc tù và cũ kỹ lên xem. Anh cán bộ văn hoá huyện nói: "Xin bác cho chuyển về phòng truyền thống của huyện”. Ông bí thư tỉnh uỷ gật đầu. Ông bảo anh thư ký mua hoa quả, hương nhang ra nghĩa trang viếng mộ lão Vận. Nghe nói trước khi ra đi, ông còn gửi lại xã mấy triệu đồng để hương khói và sau ba năm cải táng, xây mộ cho lão.
Hôm ấy là đúng một trăm ngày mất của lão Vận...
Hà Nội, 6-2003
© Tác giả giữ bản quyền.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 09.01.2014
Cập nhật lại ngày 08.8.2015
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại. _______________________________________________
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét