Đào Văn Đạt
Nhìn cái lồng chim trống trơ treo trước nhà, tôi biết ông buồn và giận tôi nhiều lắm. Tuổi già sống giữa phố thị ồn ào có cái lồng chim treo ngoài hiên là cả một không gian thật an nhàn, thảnh thơi. Tiếng cúc cù cu mộc mạc thân quen vang lên trong muôn vàn tiếng xe cộ cũng đủ làm cho tuổi thọ ông dài ra theo năm tháng. Vậy mà chỉ một phút lơ đễnh trong lúc cho chim ăn tôi đã làm tan biến đi cả một bầu trời bình yên của tuổi già, thật là đáng trách.
Tôi ngồi bó gối rầu rĩ ở hiên nhà, nghe rõ từng bước chân của ông đi từ nhà trên xuống nhà dưới. Bước chân sao nghe nặng nề ray rứt, có gì đó đau đáu cho sự hối tiếc. Bước chân ấy dừng lại trước mặt tôi. Không dám nhìn lên, tôi cúi đầu nhìn bàn chân gân guốc, đen sạm của ông bám trên nền gạch bông láng bóng. Trời ơi, chỉ mới một ngày mất chim thôi mà sao các ngón chân ông trở nên già nua quá vậy! Lẽ nào chim chóc ảnh hưởng đến đời sống của người già nhiều đến thế sao? Hay tại lâu nay tôi không quan tâm đến ông giờ nhìn lại bàn chân ông tôi mới giật mình lo sợ cho một ngày tôi không còn có ông nữa. Tôi còn suy nghĩ bâng quơ, bỗng ông tằng hắng: “Tú Anh, vào nhà ông biểu!”. Tôi biết có chuyện lớn rồi đây, nhưng sao tôi không còn biết sợ những lời quở trách của ông nữa. Nếu phải hứng chịu những giận dữ để ông vui tôi sẵn sàng. Khép nép đứng sau bộ salon, tôi lí nhí: “Dạ, ông kêu con!”. Đặt tách trà xuống, ông nói: “Cháu có muốn chuộc lỗi không?”. Chỉ chờ có vậy, tôi ngẩng mặt lên nhìn ông phấn khởi: “Dạ, ông sai con làm chuyện gì con cũng làm, nhảy vô lửa con cũng nghe.”. Gương mặt ông giãn ra: “Ông đâu bắt cháu phải nhảy vô lửa.” Ngưng một chút ông tiếp: “Ngày mai cháu đón xe đò về quê một mình, đưa cho ông Tư Râu cái thư này là con đã chuộc lỗi lầm đủ rồi.”. Tôi mừng húm. Vậy là tôi có cơ hội chuộc lỗi rồi, nhưng sao phải đi xe đò về quê một mình mà không đợi chủ nhật nhờ chú Năm tài xế lấy xe nhà chở đi. Tôi định thắc mắc thì ông lên tiếng: “Đi xe đò một mình để con nếm được cái chen lấn cực khổ với người ta, vả lại lớn rồi phải tập đi xa một mình cho quen, còn việc xin phép ba mẹ để ông lo.”. Không dám cãi, tôi cúi đầu vào phòng chuẩn bị đồ đạc để sáng sớm mai về quê một mình.
Cũng may ở quê tôi còn có bác Ba, nên vừa về đến bác và anh chị mừng rỡ đón tiếp tôi một cách nồng hậu. Sau khi tắm rửa nghỉ ngơi tôi hỏi nhà ông Tư Râu, anh Út con bác Ba cười hề hề: “Tưởng nội gửi thư cho ai xa lạ, té ra là ông Tư Râu chơi điểu!”. Mới nghe tôi hơi ngạc nhiên, lẽ nào ông tôi chơi thân với một người không tốt, luôn đểu giả. Thấy tôi ngớ ra, anh Út tiếp: “Điểu là chim đó em, ông này từ xưa giờ chim gì ổng cũng chơi, từ chim nhỏ đến chim lớn. Có những con nằm trong sách đỏ cho đến các loài cấm kị như cú mèo, chim ục ông chơi tuốt.”. Nghe xong tôi gật gù: “À, thì ra là vậy.”. Anh Út dẫn tôi qua tới sân nhà ông Tư, giới thiệu tôi với ông rồi ra về, không quên dặn tôi xong việc nhớ về ăn cơm. Tôi đứng ngỡ ngàng trước một khoảng sân rộng ngập tràn tiếng chim. Từ những loài chim quen thuộc như cu gáy, chích chòe, họa mi… cho đến các loại chim màu sắc rực rở không biết tên gì. Tôi ngất ngây giữa không gian rộn rã của tự nhiên, tưởng như mình đang lạc vào chốn rừng hoang. Trong khi tôi còn chìm đắm trong muôn vàn âm thanh của núi rừng thì ông Tư mở thư ông nội tôi ra xem. Một lúc sau ông đến bên tôi cười khà khà: “Ông nội con muốn xin ông con chim cu gáy khác. Con kia mất rồi, lỗi này là do con phải không?”. Tôi cúi đầu nhận lỗi. Ông vuốt nhẹ đầu tôi rồi nói: “Chuyện đâu có lớn mà phải sai đứa cháu gái lặn lội đến đây vậy.” Ngưng một chút ông tiếp: “Được rồi, chờ ông chút!”. Rồi ông gọi: “Huy, ra đây ông biểu!”. Nhìn theo hướng mắt ông Tư, tôi thấy từ phía sau một thằng con trai cỡ tuổi tôi lúi húi bước lên đứng sau lưng ông lễ phép: “Dạ, ông kêu con!”. “Con lấy xe, chở cháu này ra chòi lấy con chim chiến nhất về cho ông!”. Tôi thoáng thấy gương mặt gã con trai lúng túng, rồi hắn nói lí nhí: “Nhưng ở nhà mình cũng có chim chiến vậy ông, đi chi ra chòi cho xa?”. Ông Tư cười khà khà: “Ừ, cũng có, nhưng mấy con này giọng thổ không hay lắm. Còn ngoài chòi có mấy con giọng đồng pha kim nghe mới sướng cái lỗ tai, ông muốn biếu bạn tri kỉ của ông một con chim thật tốt”. Tên con trai đưa mắt nhìn tôi có vẻ e ngại. Tôi không trách, có lẽ con trai quê thường rụt rè trước con gái, mà là một người con gái đẹp như tôi ắt sẽ làm người đối diện đôi lúc mất tự tin. Se điếu thuốc rê đặt lên môi ông Tư nhìn tôi giới thiệu với gã con trai: “Đây là Tú Anh, cháu gái ông Hai ở thành phố mới về quê, ông muốn cho nó đi cùng con ra chòi coi mấy con chim hay, sẵn dịp con cho nó biết chút ít về miền quê cũng tốt vậy con.”. Tôi cười thầm. Cha, ông già hiểu tâm lý mấy người thành thị khoái cảnh miền quê đây. Còn tên con trai này thật là chảnh, tưởng tôi thích đi chung lắm hả, còn lâu. Tại tôi cũng muốn chính mắt mình nhìn thấy con chim gáy tốt, gáy hay như thế nào để khi về còn có cái nói với ông.
Suốt dọc đường đi ra chòi, gã con trai tên Huy cứ im lặng cầm tay lái. Người gì đâu khó hiểu, không phải tôi muốn trò chuyện với hắn, nhưng ít ra hắn cũng phải biết ngồi phía sau yên xe của hắn là một đứa con gái chứ không phải là một vật thể vô tri. Thôi kệ, quan tâm chi cho mệt, người như hắn đâu cần phải mất thời gian suy ngẫm. Tôi chỉ cần ra đến chòi coi chim giùm ông là đủ lắm rồi. Ngồi phía sau tôi tha hồ đưa mắt nhìn bên trái rồi bên phải. Cảnh vật ở đây thật yên ả và đẹp đến mê hồn. Trên mấy giồng đất cao người ta trồng khoai từ, khoai lang từng luống dây leo xanh rì bò thẳng tấp. Lúp xúp ở chân đồi mấy vạt mía trổ cờ trắng xóa, nhìn từ xa như mây trên trời sà xuống đất thật tuyệt vời. Vọng giả trong không gian có tiếng lộc cộc của mấy chiếc xe bò chở rơm rạ về xóm, mùi ngai ngái của cỏ úa lan tỏa khắp đường quê. Chiêm ngưỡng cảnh vật hai bên đường một hồi lâu tôi quay đầu về chính diện thì trước mặt tôi là cái ót ngâm đen của gã con trai. Phải công nhận tuy hắn là tuýp người không tình cảm khó gần nhưng hắn có cái ót rất đẹp. Với mái tóc cắt gọn ghẽ tạo cho cái ót có một sức trẻ lạ lùng, mớ tóc mai lưa thưa phía trên cùng làm cho vùng sau gáy của hắn thật lãng mạn. Nhìn hắn từ phía sau ót một hồi lâu tôi thấy tên này có cái gì đó cũng hay hay, nhưng không phải vì vậy mà tôi có cảm tình với một gã luôn lấy im lặng làm thước đo lòng người. Rời khỏi cái ót vuông vức có chút ngạo mạn của hắn, tôi nhón người lên đưa tầm mắt phóng qua đầu hắn nhìn về phía trước, xa xa nơi lưng đồi lác đác vài mái tranh vàng óng. Chắc là gần tới chòi rồi đây, tôi nghe lòng mình phấn khởi. Nhưng có lẽ do tôi nhón người lên một cách đột ngột nên chiếc xe lảo đảo, làm cho hắn phải đưa hai chân ra giữ thăng bằng. Hắn lên tiếng: “Bộ ngồi xe đường quê nhiều ổ gà làm đằng ấy đau lưng hả?”. Dữ hôn, trời gầm cóc mới mở miệng. Tôi cười khúc khích: “Không phải do con đường dằng, mà do tài xế chạy xe im lặng quá đôi lúc cũng làm cho người ta nhức xương cốt.” Hắn cười to: “Nếu vậy thì ngay bây giờ đằng ấy vịn cho chắc tôi sẽ cho xe chạy xuống ổ gà để lấy lại cân bằng.”. Dứt lời hắn lao chiếc xe xuống cái ổ gà trước mặt làm cho cả người tôi nhào về phía trước, bất giác tôi chụp lấy đôi vai của hắn níu lại. Khi chiếc xe chạy lại bình thường tôi ngẫm nghĩ, thì ra tên con trai này cũng biết trả miếng chứ không phải lầm lì như tôi nghĩ. Lúc tôi níu bờ vai của hắn làm cái áo thun xệ xuống để lộ ra cái nốt ruồi ở giữa hai bờ vai. Mà theo như trong sách tử vi ông tôi thường xem lúc rảnh rỗi, thì những người có nút ruồi nằm đúng vị trí ấy là quí tướng, khôn lanh, giàu có bậc nhất thiên hạ. Không biết sách tử vi nói có đúng không chứ theo tôi với cái bản chất bất thường pha chút láu cá như tên này, nhất định sau này không làm nên trò trống gì cả.
Xe đến chòi, tôi chưa kịp quan sát cảnh vật xung quanh, hắn lẹ làng dẫn xe dựng bên gốc bằng lăng rồi kêu lớn: “Chú Mười ơi, con ra bắt chim về cho ông nội!”. Tôi nghe có tiếng người trả lời lại ở phía sau chồi: “Ừ, bắt con nào thì bắt đi, nhớ lấy thêm lúa về cho nó ăn nghen!”. Khác với những gì lầm lì lúc đi trên đường, giờ đây hắn huyên thuyên kể tôi nghe về đặc tính của các loài chim. Nếu trời sắp có mưa bão lũ bù chao thường lao xao gọi bầy, loài này sống có tính cộng đồng rất tốt. Còn ngày nào trời quang đãng thì từ sáng sớm tiếng cu gáy cứ rúc lên từng chập nghe thật bình yên. Nghe hắn giảng một hồi lâu tôi hỏi: “Ngoài tính năng dự báo thời tiết ra, chim không còn biết hót để biểu hiện cái gì nữa hả?”. Hắn cười: “Còn chứ, ví dụ như làm duyên với bạn tình thì tiếng hót trở nên ngọt ngào tình tứ. Có khi còn pha chút lẳng lơ, màu mè nếu đó là chim mái. Hoặc muốn làm quen với một loài chim lạ mới mang về, chim chủ nhà thường hót rất nhỏ có khi còn im lặng quan sát đối tượng. Khi đã quen rồi thì giọng hót trong veo thật thân mật… Rồi còn hót báo động nguy hiểm cho nhau, hót đòi ăn, hót đòi tắm rửa, hót đòi nhiều thứ khác…, đằng ấy muốn nghe nữa không?”. Thôi đủ rồi, sao lúc trên đường từ nhà đến đây không nói nhiều bây giờ nói như két vậy?”. Hắn cười to để lộ hàm răng đều ro, trắng ngần. Đôi môi dầy nằm dưới hàm râu lưa thưa chạnh ra thật có duyên. Ngay cả lũ chim không biết đồng tình hay phản đối tiếng cười của hắn mà cũng im bặt tiếng hót, lẽ nào nụ cười của hắn đẹp đến mức “chim câm gió lặng” thế sao? “Tôi tập cho mình không nói chuyện nhiều trong lúc chạy xe, vì sẽ không tập trung có khi gặp nguy hiểm!”. Rồi hắn nghiêng đầu qua tôi chỉ tay lên cái lồng chim treo trên cành mít. Cái nghiêng đầu có thể là tình cờ, nhưng sao tôi có cảm giác như hắn muốn gần tôi để khoe mái tóc dầy đen óng của hắn, người gì đâu tự tin phát ớn. Rồi hắn lên tiếng: “Mình bắt con cu gáy đó nghen Tú Anh! Tuy nó còn nhỏ chưa trổ mã đều nhưng coi bộ gió gọn gàng nhất định sẽ là chim hay”. Nghe hắn gọi tên tôi một cách tỉnh bơ hệt như tôi với hắn đã quen nhau từ thuở nào. Tôi trề môi: “Sao biết chắc là nó sẽ hay, làm như anh là thầy của nó không bằng.” Hắn nhìn tôi cười: “Thôi được, tôi xin cam đoan nếu con này đem về mà nó không hay tôi sẽ đền con khác, được chưa?”. Tôi không rành về cách xem tướng của chim nhưng thoáng nhìn qua tôi thấy con chim này cũng bệ vệ, nên gật đầu. Trùm cái áo lồng lại tôi và hắn lên xe về nhà.
Trên đường về tự nhiên hắn nhẹ giọng xin lỗi tôi về việc đã cho xe chạy xuống cái ổ gà lúc đi, để tôi phải mất hồn. Nghe hắn xin lỗi tôi giả bộ lên mặt. Chứ thật ra tôi đã quên chuyện đó từ khi phát hiện cái nốt ruồi quí tướng của hắn. Tôi lên tiếng: “Vậy mai mốt nếu có chở một người con gái khác nên nhớ đến tôi là không chạy ẩu nữa nghen!”. Hắn quay lại nhìn tôi thật nhanh rồi nở nụ cười thân thiện, nụ cười chỉ thoáng qua mà sao đẹp gì đâu: “Tuân lệnh!”. Ngưng môt chút hắn tiếp: “Nhưng xe tôi không quen chở người lạ, chỉ quen chở người đẹp tên Anh thôi” rồi hắn cười khúc khích. Sẵn đôi tay rảnh rang tôi nhéo vào hông hắn một cái đau điếng. Hắn ẹo lưng nhưng vẫn cố kìm cho chiếc xe lướt trên đường quê thật êm dịu, ráng chiều đã len lén phía sau lưng làm cho bóng tôi và hắn cứ chập chờn ngả về một phía…
***
Con chim được đem về nhà đã hơn ba tháng, nhưng nó vẫn im lặng buồn so. Lẽ nào xa bầy nhớ bạn mà nó không hót. Ông tôi hết đi ra lại đi vô miệng cằn nhằn: “Chẳng lẽ thằng cháu ông Tư thấy con nhỏ này mặt lớ ngớ nên bắt con chim mái cho mình? Nếu vậy thì còn gì là tình tri kỉ”. Nghe ông nói tôi vội bào chữa: “Không phải đâu ông ơi, đây là chim trống chính hiệu, nhưng có lẽ nó còn nhỏ chưa trổ mã đều nên hót chưa thành tiếng đó thôi!”. Nói xong câu này tôi mới giật mình, không biết có phải do chính mình nói với ông hay là tôi bê nguyên xi câu nói của gã con trai cháu ông Tư ra thuyết trình về loài chim. Thấy tôi trả lời một cách dõng dạc ông nhìn tôi với ánh mắt rất lạ. Vì theo ông, từ xưa đến giờ tôi ít quan tâm đến chim chóc, ngay cả việc đơn giản mở lồng cho ăn mà tôi làm còn không xong. Vậy mà chỉ sau một chuyến về quê tôi đã phân biệt được chim nào trống chim nào mái. Ông càng ngạc nhiên hơn khi nghe tôi phân tích tiếng chim và cách nhìn chim trổ mã thế nào để biết con đó hót hay hay hót dở. Tuy nhiên ông vẫn nghi ngờ cách hiểu biết của tôi nên cuối cùng ông quyết định rủ tôi về quê một lần nữa. Miền quê muôn thuở vẫn êm đềm. Ngôi nhà ông Tư vẫn tràn ngập tiếng chim, hàng điều trước nhà vẫn um tùm che bóng mát. Tôi và ông được ông Tư tiếp đãi thật nhiệt tình. Có lẽ đã lâu lắm rồi ông tôi mới gặp lại bạn tri kỷ, nên ông rất vui trò chuyện không ngớt, hai ông nói rất nhiều về cách chơi chim. Tôi chán nản đảo mắt nhìn xung quanh chợt nghe trống vắng. Rồi nghe ông Tư nói: “Thằng Huy cháu tôi nó vừa tuyển thêm một con chim trống hót chiến đấu lắm.”.Ông tôi cười khà khà: “Nhưng thằng cháu ông giờ nó ở đâu, tôi muốn gặp cậu ấy để cho rõ con chim tơ mà đưa cho con Tú Anh là chim trống hay chim mái!”. Châm cho ông tôi một tách trà mới ông Tư lên tiếng: “Thằng cháu tôi nó mới về quê để chuẩn bị lên thành phố học. Trước khi đi nó dặn tôi khi nào con chim trổ mã đều và thật căng lửa nó sẽ về để tặng cho một ai đó. Nhưng nay chim đã trổ mã đều và hót líu lo mà nó vẫn chưa về, thôi thì thay mặt nó tôi biếu ông con này, nó về tôi sẽ nói lại.” Rồi ông Tư dẫn tôi và ông ra phía sau vườn chỉ con chim mà Huy đã cất công tuyển chọn. Nhìn con chim xòe đuôi vỗ cách hót líu lo ông tôi gật đầu thích chí.
Nhìn niềm vui của ông nội hiện rõ trên gương mặt tự nhiên tôi chợt nhớ đến Huy. Nhớ gương mặt chữ điền và cái ót vuông vức, nhớ mái tóc đen dầy và hàm răng trắng ngần của nụ cười thuở nào. Tuy nó chưa ấn tượng lắm đối với tôi nhưng sao tôi cảm thấy có cái gì đó man mác đang tràn về. Và hình như là nỗi buồn đến gần lắm, gần đến mức có thể sờ được trong một buổi chiều gió lộng thế này. Nhưng không, tôi không được phép buồn vì từ khi làm mất con chim của ông tôi luôn tự trách mình và hứa với lòng là làm đủ mọi cách miễn sao ông được vui. Giờ đây ông đã vui rồi thì nỗi buồn cỏn con của tôi có đáng là bao. Tôi thở hắt quay lưng.
Đ.V.Đ (Bình Dương)
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét