Nó đang ngồi ở công viên Tết Mậu Thân để ôn bài, chuẩn bị cho kỳ thi sắp tới. Bỗng, nó nghe có tiếng rao vang lên như xé toạc cái yên ắng, giữa cái nắng hanh khô của mùa giáp Tết. Tiếng rao của bà đến xốn xang: “Bánh tráng đây, bánh phồng đây… đ… ây…”. Nó quay lại thì thấy một bà lão đang quẩy gánh đi tới. Cơn gió thổi mạnh làm mái tóc bạc của bà như rối tung cả lên.
Nó vội vàng gọi bà: “Bà ơi! Bán cho cháu một cái bánh trán đi ạ…!”. Bà đặt gánh bánh xuống và nhẹ nhàng tháo cái túi nylon to đùng, đầy ắp bánh trán và bánh phồng nướng sẵn. Bà đưa bánh cho nó. Nhanh nhẹn, bà cất chiếc nón lá và lên đầu. Rồi bà quẩy gánh kẽo kẹt cùng với tiếng rao. Tiếng rao nhỏ dần rồi mất hẳn giữa buổi trưa oi ả.
Bà lão đi rồi nhưng hình ảnh cái bánh tráng ngày xưa lại kéo sầm sập về, đong đầy ký ức. Nó nhớ lại những ngày trước. Thường lệ, khoảng 23-24 (âm lịch) thì học sinh đều được nghỉ học để chuẩn bị đón Tết. Và những ngày chờ Tết rất là vui: vui vì sẽ được mặc chiếc áo mới đi chơi, vui vì nồi bánh, nồi thịt sẽ được múc ra khi cúng rước ông bà… Nhưng điều vui nhất là những ngày nó phụ mẹ tráng bánh ăn Tết.
Vào đầu tháng Chạp, mẹ nó đã chuẩn bị sẵn nào là: dừa khô, đậu phộng, gạo ngon để chuẩn bị làm bánh. Còn ba nó thì lo phần lò nấu bánh và nồi nấu bánh đâu vào đấy. Sau khi công việc đã hoàn tất, mẹ nó ngâm gạo, rồi xay bột. Nó và chị Tư đảm nhận việc nạo dừa, còn anh Hai thì nhóm lò. Và mẹ đặt lên một nồi nấu bánh to đùng. Nó thường hay đứng quan sát mẹ tráng bánh. Nó thích nhìn mẹ đổ từng vá bột lên khuôn và dùng chiếc đũa bếp to tráng tráng thành một cái vòng tròn trịa. Thế là một chiếc bánh tráng đã được định hình. Sau đó, mẹ nhanh nhẹn lấy chiếc bánh ra đặt lên phên lá dừa đã được bện sẵn. Ba nó vội vàng vác khung ra sân phơi bánh cho khô. Dường như, cả sân nhà tôi nhuộm một màu trắng.
Không chỉ nhà nó làm bánh mà trong xóm còn có nhà bà Tư, ông Bảy, cô Tám… cũng tráng bánh. Và nhà ai cũng có những phên lá dừa hay liếp tre phơi đầy bánh tráng.
Những ngày cận Tết, ba nó thường bắt xe và mang vài chục bánh bánh lên Sài Gòn để biếu. Dường như, ai ai cũng thích món quà dân dã ấy. Nó nhớ lời nói vui của bà Sáu: “Cha con mầy đừng biếu gì sang trọng hết. Tao chỉ thích món bánh tráng này thôi… Nhớ năm tới gửi thêm cho dì vài chục nữa nhá…”. Ba tôi mỉm cười, gật đầu với bà.
Buổi tối, những ngọn gió bấc thổi xào xạc. Ba nó hay trải chiếu ngồi trước hàng ba với một ấm trà “con dơi” đang ủ trong bình bằng vỏ dừa. Mẹ nó đốt một đống rơm và đợi ngọn lửa tàn. Mẹ khéo léo kẹp chiếc bánh vào giữa hai miếng tre. Nhanh tay, mẹ lật qua lật lại trên lớp than đỏ cho bánh vàng đều và không bị khét. Nó nhớ lời mẹ dạy: “Bánh có chín vàng đều và giòn thì mới ngon”. Và mùi của bánh tráng xen lẫn mùi rơm từ những đám cháy bập bùng thật là tuyệt. Nó hích một hơi thật dài. Sau khi nướng bánh xong, cả nhà nó quay quần bên nhau vừa ăn bánh vừa trò chuyện râm ran. Thằng Chín nói bi bô: “Bánh này béo quá hả ba…?!”
Thế rồi, thắm thoát anh em nó lớn lên, đi học và xa nhà. Anh em nó không còn phụ ba mẹ tráng bánh nữa. Bây giờ, quê nó có nhiều thay đổi. Bà con trong xóm không còn ai tráng bánh nữa. Ngay cả gia đình nó cũng vậy, kể từ khi mẹ nó bị chứng “gai cột sống”. Nó không còn nhìn thấy cảnh mẹ nó lúi húi tráng chiếc bánh tròn tròn và chứng kiến cảnh cả xóm thi nhau phơi bánh trắng cả sân. Nó chợt thèm ăn chút bánh tráng ướt mới tráng nhưng sao khó quá! Nó thấy lòng mình xao xuyến đến lạ.
Mặc dù ngày nay, bánh tráng thì vẫn được mang đi rao bán khắp nơi. Bán cho những ai không còn có thời gian... như nó. Nhưng nó vẫn thấy thiếu thiếu một chút gì đấy?!
V.S (Tiền Giang)
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét