Nguyễn Du (1765–1820) tên tự Tố Như, hiệu Thanh Hiên, biệt hiệu Hồng Sơn lạp hộ, là một nhà thơ nổi tiếng thời Lê mạt- Nguyễn sơ Việt Nam. Thông qua tác phẩm, nhất là Truyện Kiều, ông xứng đáng được người Việt tôn vinh là "Đại thi hào dân tộc". Năm 1965, ông được UNESCO tôn vinh là danh nhân văn hóa thế giới. Địa chỉ: 528 Âu Cơ Qui Nhơn
_____
CUỘC ĐỜI NGUYỄN DU VÀ TRUYỆN KIỀU
*
Phần I: Cuộc đời Nguyễn Du và Tác phẩm
Nguyễn Du (1765–1820) tên tự Tố Như, hiệu Thanh Hiên, biệt hiệu Hồng Sơn lạp hộ, là một nhà thơ nổi tiếng thời Lê mạt- Nguyễn sơ Việt Nam. Thông qua tác phẩm, nhất là Truyện Kiều, ông xứng đáng được người Việt tôn vinh là "Đại thi hào dân tộc". Năm 1965, ông được UNESCO tôn vinh là danh nhân văn hóa thế giới. 1.- Về cuộc đời
Qua tra cứu, đối chiếu âm và dương lịch có sự trùng khớp về ngày … năm sinh thì:
Nguyễn Du sinh ngày 23 tháng 11 năm Ất Dậu 1765 tức ngày 03.01.1766 dương lịch.
Về nơi sinh: (theo Wikipedia) thì ông được sinh tại Thăng Long (Hà Nội). Nhưng theo gia đình phía ngoại ông ở Bắc Ninh thì; Cậu Nguyễn Du sinh ngày 3-1-1765 tại quê mẹ, làng Kim Thiều, xã Hương Mặc, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.(danchua). Tổ tiên ông là dòng dõi Nguyễn Xí gốc ở làng Cương Gián, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh sau di cư vào làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân (nay là xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh). Nguyễn Xí vốn là đại công thần khai quốc nhà Lê, nên đến bảy thế hệ viễn tổ trước ông đã từng đỗ đạt làm quan. Nguyễn Du thuộc về một gia đình khoa bảng nổi danh ở làng Tiên Điền về thời Lê mạt.
Chaông là Nguyễn Nghiễm (1708-1775), đậu Nhị giáp tiến sĩ, làm quan đến chức Đại tư đồ (Tể tướng), tước Xuân Quận Công dưới triều Lê... Ngoài là một đại thần, ông Nghiễm còn là một nhà thơ, một nhà nghiên cứu sử học. Ông có cả thảy tám vợ và 21 người con trai(1). Người con trưởng là Nguyễn Khản (1734-1786) đỗ Tam giáp tiến sĩ, làm quan tới chức Tham Tụng, tước Toản Quận Công (con bà chính, rất mê hát xướng, nổi tiếng phong lưu một thời, là thân khách của chúa Trịnh Sâm), người con thứ hai là Nguyễn Điều đỗ Hương cống, từng làm trấn thủ Sơn Tây. Nếu kể theo thứ tự này, thì Nguyễn Du đứng hàng thứ bảy, nên còn được gọi là Chiêu Bảy.
Mẹ Nguyễn Du là bà Trần Thị Tần (1740-1778), con gái một người thuộc hạ làm chức câu kế(2), người xã Hoa Thiều, huyện Đông Ngàn, xứ Kinh Bắc, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh. Bà Tần là vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm, trẻ hơn chồng 32 tuổi. Bà sinh được năm người con, bốn trai và một gái.(3).
Thuở nhỏ Nguyễn Du sống trong nhung lụa, nhưng cuộc sống này kéo dài chưa tới mười năm. Năm lên 10, ông mồ côi cha, đến 13 tuổi thì mồ côi mẹ, các anh em ông phải đến sống với người anh cả khác mẹ là Nguyễn Khản (ông Khản lớn hơn Nguyễn Du 31 tuổi). Năm ông 15 tuổi (1780) thì xảy ra "Vụ mật án Canh Tí”: Chúa Trịnh Sâm lập con thứ là Trịnh Cán làm thế tử, thay cho con trưởng là Trịnh Tông. Ông Khản theo giúp Trịnh Tông- việc bại lộ, ông Khản bị bắt giam. Đến khi Trịnh Tông lên ngôi, ông Khản được cử lên làm Thượng thư Bộ Lại và Tham tụng. Quân lính khác phe (sử gọi là "kiêu binh”) không phục, kéo đến phá nhà, khiến ông Khản phải cải trang trốn lên Sơn Tây sống với em là Nguyễn Điều rồi về quê ở Hà Tĩnh. Thế là anh em Nguyễn Du từ bấy lâu đã đến nương nhờ ông Khản, mỗi người phải mỗi ngã. Đến năm 1783, Nguyễn Du thi Hương đỗ tam trường (tú tài), sau đó không rõ vì lẽ gì không đi thi nữa. Trước đây, một võ quan họ Hà (không rõ tên) ở Thái Nguyên, không có con nên đã nhận ông làm con nuôi. Vì thế, khi người cha này mất, Nguyễn Du được tập ấm(4) một chức quan võ nhỏ ở Thái Nguyên.
Năm 1786, Nguyễn Huệ đưa quân Tây Sơn ra Bắc Hà và làm rể vua Lê. Đến năm 1789, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng Đế kéo đại quân ra Bắc đánh tan hai mươi mấy vạn quân Thanh sang đánh chiếm Đại Việt. Lúc này, Nguyễn Du đang tìm đương chạy theo vua Lê Chiêu Thống (1766-1793) nhưng không kịp, đành trở về quê vợ(5), quê ở Quỳnh Côi tỉnh Thái Bình, sống nhờ nhà người anh vợ là danh sĩ Đoàn Nguyễn Tuấn (sinh năm1750- không rõ năm mất). Được vài năm, ông về Nghệ An. Đến Năm 1796, nghe tin ở Gia Định, chúa Nguyễn Ánh (1762-1819) đang hoạt động mạnh, ông định vào theo, nhưng chưa đi khỏi địa phận Nghệ An thì đã bị quân Tây Sơn do tướng Nguyễn Thuận chỉ huy, bắt giữ ba tháng. Trở về Tiên Điền (Hà Tĩnh), ông sống chật vật một thời gian dài cho đến mùa thu năm 1802, khi chúa Nguyễn Ánh lên ngôi lấy niên hiệu Gia Long, thì ông được gọi ra làm quan cho nhà Nguyễn.
Năm 1802, ông nhậm chức Tri huyện tại huyện Phù Dung (nay thuộc Khoái Châu, Hưng Yên). Tháng 11 cùng năm, chuyển qua làm Tri phủ Thường Tín (Hà Tây, nay thuộc Hà Nội).
Tính từ thời điểm đó, Nguyễn Du lần lượt đảm nhận các chức danh:
Năm 1803: đến cửa Nam Quan tiếp sứ thần nhà Thanh, Trung Quốc.
Năm 1805: thăng hàm Đông Các điện học sĩ.
Năm 1807: làm Giám khảo trường thi Hương ở Hải Dương.
Năm 1809: làm Cai bạ dinh Quảng Bình.
Năm 1813: thăng Cần Chánh điện học sĩ và giữ chức Chánh sứ đi Trung Quốc.
Sau khi đi sứ về vào năm 1814, ông được thăng Hữu tham tri Bộ Lễ.
Năm 1820, Gia Long mất, Minh Mạng (1791-1840) lên ngôi, Nguyễn Du lại được cử làm Chánh sứ đi Trung Quốc, nhưng chưa kịp lên đường thì mất đột ngột (trong một trận dịch khủng khiếp làm chết hàng vạn người lúc bấy giờ) ở kinh đô Huế vào ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn tức 16 tháng 9 năm 1820.(6) Thi hài Nguyễn Du được táng ở xã An Ninh, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên. Bốn năm sau mới cải táng về Tiên Điền (Hà Tĩnh) )(7).
2.- Về tác phẩm (theo tài liệu Wikipedia)
Điểm chung
Qua các tác phẩm của Nguyễn Du- xét về nội dung, nét nổi bật chính là sự đề cao xúc cảm, tức đề cao chữ "tình”. Điều ấn tượng nhất ở đây, là sự cảm thông sâu sắc của tác giả đối với cuộc sống và con người, đặc biệt là những con người nhỏ bé, bất hạnh (điển hình: Văn chiêu hồn, Sở kiến hành, Thái Bình mại ca giả v.v.). Cái nhìn nhân đạo này khiến ông được đánh giá là " tác giả tiêu biểu của trào lưu nhân đạo chủ nghĩa trong văn học cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19”. Riêng với Truyện Kiều, kiệt tác này còn "thấm đẫm tinh thần ngợi ca, trân trọng vẻ đẹp kì diệu của tình yêu lứa đôi.”
Nghệ thuật
Nguyễn Du là nhà thơ có học vấn uyên bác, nắm vững thi pháp nhiều thể loại thơ Trung hoa, như: ngũ ngôn cổ thi, ngũ ngôn luật , thất ngôn luật, ca, hành...nên ở thể thơ nào, ông cũng có bài xuất sắc. Đặc biệt hơn cả là tài làm thơ bằng chữ Nôm của ông, mà bằng chứng là ở Truyện Kiều, đã cho thấy thể thơ lục bát "có khả năng chuyển tải nội dung tự sự và trữ tình to lớn của thể loại truyện thơ.”(8)
Tác phẩm bằng chữ Hán
TheoWikipedia, tính đến tháng 5.2008, các nhà biên khảo và nghiên cứu hán văn đã sưu tập được gần 249 bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du, được chia ra như sau:
Thanh Hiên thi tập (Tập thơ của Thanh Hiên) gồm 78 bài, viết chủ yếu trong những năm tháng trước khi làm quan nhà Nguyễn.
Nam trung tạp ngâm (Ngâm nga lặt vặt lúc ở miền Nam) gồm 40 bài, viết khi làm quan ở Huế, Quảng Bình và những địa phương ở phía nam Hà Tĩnh.
Bắc hành tạp lục (Ghi chép linh tinh trong chuyến đi sang phương Bắc) gồm 131 bài thơ, viết trong chuyến đi sứ sang Trung Quốc.
Nhận xét về mảng thơ này, Ngữ văn 10 tập 2 viết:
"Thơ chữ Hán của Nguyễn Du thể hiện tư tưởng, nhân cách của ông. Các bài thơ trong Thanh Hiên thi tập và Nam trung tạp ngâm tuy biểu hiện một tâm trạng buồn đau, day dứt nhưng đã cho thấy rõ khuynh hướng quan sát, suy ngẫm về cuộc đời, về xã hội của tác giả. Trong Bắc hành tạp lục, những điểm đặc sắc tư tưởng, tình cảm của Nguyễn Du được thể hiện rõ ràng hơn. Có ba nhóm đáng chú ý: Một là ca ngợi, đồng cảm với các nhân cách cao thượng và phê phán những nhân vật phản diện. Hai là phê phán xã hội phong kiến chà đạp quyền sống con người. Ba là cảm thông với những thân phận nhỏ bé dưới đáy xã hội, bị đọa đày hắt hủi..."(tr. 94)
Tác phẩm bằng chữ Nôm
Sáng tác của Nguyễn Du gồm có:
Đoạn trường tân thanh (Tiếng kêu khổ đứt ruột. Tên phổ biến là Truyện Kiều), được viết bằng chữ Nôm, gồm 3.254 câu thơ theo thể lục bát. Nội dung của truyện dựa theo tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Trung Quốc. Nội dung chính của truyện xoay quanh quãng đời lưu lạc sau khi bán mình chuộc cha của Thuý Kiều, nhân vật chính trong truyện, một thiếu nữ xuân thì tài sắc.
Thời điểm sáng tác, Từ điển văn học ghi: Có thuyết cho rằng Nguyễn Du viết ra sau khi ông đi sứ Trung Quốc (1814-1820), có thuyết cho nói ông viết trước khi đi sứ, có thể vào khoảng thời gian làm Cai bạ ở Quảng Bình (1804-1809). Thuyết sau được nhiều người chấp nhận hơn (tr. 1844). Chúng tôi xét thấy thuyết thứ 2 hợp lý vì Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân Trung Hoa đã du nhập sang Việt Nam từ trước đó.
Văn chiêu hồn(tức Văn tế thập loại chúng sinh, dịch nghĩa: Văn tế mười loại chúng sinh), hiện chưa rõ thời điểm sáng tác. Trong văn bản do Đàm Quang Thiện hiệu chú có dẫn lại ý của ông Trần Thanh Mại trên "Đông Dương tuần báo” năm 1939, thì Nguyễn Du viết bài văn tế này sau một mùa dịch khủng khiếp làm hằng triệu người chết, khắp non sông đất nước âm khí nặng nề, và ở khắp các chùa, người ta đều lập đàn giải thoát để cầu siêu cho hàng triệu linh hồn. Ông Hoàng Xuân Hãn cho rằng có lẽ Nguyễn Du viết Văn chiêu hồn trước cả Truyện Kiều, khi ông còn làm cai bạ ở Quảng Bình (1802-1812). Tác phẩm được làm theo thể song thất lục bát, gồm 184 câu thơ chữ Nôm.
Thác lời trai phường nón, 48 câu, được viết bằng thể lục bát. Nội dung là thay lời anh con trai phường nón làm thơ tỏ tình với cô gái phường vải.
Văn tế sống Trường Lưu nhị nữ, 98 câu, viết theo lối văn tế, để bày tỏ nỗi uất hận vì mối tình với hai cô gái phường vải khác.
Hai bài này được sáng tác khoảng thời gian Nguyễn Du về sống ở Nghệ An, sau bị quân Tây Sơn bắt giữ rồi thả.
Theo Từ điển văn học (bộ mới) thì: "Bài Thác lời trai phường nón rất tình tứ, mang âm hưởng của ca dao, của vè còn đậm nét. Bài Văn tế sống Trường Lưu nhị nữ, tác giả cũng học tập ở ca dao, tục ngữ, thành ngữ nhưng chưa được nhuần nhuyễn; nhiều chỗ tác giả tỏ ra quá lệ thuộc, làm giảm tính sáng tạo của mình.
3.- Về nỗi lòng Nguyễn Du
Xuất phát từ cuộc đời lận đận của ông dọc theo bờ thịnh suy thời cuộc nên nỗi lòng của ông càng phức tạp. Để hiểu nó, một số nhà nghiên cứu văn học đã dựa vào Gia phả họ Nguyễn Tiên Điềnvà thông qua các tác phẩm của ông (điểm xoáy là Truyện Kiều) để rút ra một số nhận định. Nhưng những nhận định ấy đến nay vẫn chưa thống nhất, thậm chí còn kết tựu thành chuỗi dài mâu thuẫn.
Dẫn chứng một số nhận định:
Năm 1963, GS. Phạm Thế Ngũ viết:
"Một thuyết thịnh hành từ lâu do Trần Trọng Kim xướng ra rằng Truyện Kiều chứa đựng một tâm sự tha thiết nhất của Nguyễn Du, ấy là cái tâm sự của kẻ hàng thần nhớ chúa cũ (hoài Lê). Thuyết trên không phải là điều bị đặt mà có sở cứ rõ ràng. Thái độ phò Lê của ông được tỏ rõ trong những mưu toan chống Tây Sơn. Về sau, bất đắc dĩ phải ra hợp tác với Nguyễn, ông thường tỏ ra kín đáo, nếu không nói là lãnh đạm, lúc nào cũng như mang nặng trong lòng một bầu u uất khó nói. Nỗi lòng ấy chỉ có thể là, như lời ai điếu của Bùi Kỷ trong bài Truy điệu cụ Tiên Điền vào năm 1927:
Dở dang thay cái tu mi.
Cực trăm nghìn nỗi trong khi tòng quyền.
"Hành vi của tác giả chứng tỏ, mà văn chương của tác giả nhiều khi cũng hé lộ rõ ràng. Nhiều bài thơ chữ Hán của ông trong Thanh Hiên tập, Bắc hành tập, đầy ý điếu cổ thương kim, giọng khảng khái bi đát. Cho đến bao nhiêu câu trong chính Truyện Kiều tả thân thế người con gái lưu lạc cũng gióng lên tiếng đau buồn ấy của tác giả..."(tr. 360)
Năm 1967, GS. Thanh Lãng viết:
"Anh em Nguyễn Du đã từng cầm quân ủng hộ nhà Lê, tỏ ra khí phách hơn người. Nhưng công việc không thành, nhà chính trị trẻ tuổi (Nguyễn Du) bỏ về quê, lấy thú chơi săn bắn ở núi Hồng Lĩnh... "Và như phần đông nho sĩ đương thời, ông cho cái đời làm quan dưới một triều đại mới là một trạng thái "thất tiết”, thành ra suốt đời lúc nào ông cũng buồn rầu, ân hận..."(tr. 612)
Năm 1973, nhà phê bình Thạch Trung Giả viết:
"Điều hiển nhiên là niềm tưởng nhớ nhà Lê, nỗi uất ức của người dồn phải dồn vào thế hàng thần. Như chúng ta đã biết, Nguyễn Du là một con người có khí tiết nên đã từng mưu sự cần vương chống Quang Trung. Đến khi nhà Tây Sơn đổ vì nhà Nguyễn, đám cố Lê hết chính nghĩa để chống lại, nhưng những người như Nguyễn Du vẫn không quên mình và ông cha mình đã từng ăn lộc nhà Lê. Vậy việc phải làm tôi cho Gia Long là một vạn bất đắc dĩ, một sự đau lòng, một sự tủi nhục..."(tr. 370)
Năm 1978, GS. Trương Chính viết:
"Đọc ba tập thơ chữ Hán của Nguyễn Du, chúng ta có thể giải quyết được một vấn đề trước nay ý kiến rất phân tán: thái độ của Nguyễn Du đối với các triều đại."
"Trong một thời gian khá dài, từ khi Tây Sơn ra Bắc hà (1786) cho đến khi Tây Sơn thất bại (1802), rõ ràng Nguyễn Du có tính việc phục quốc (phù Lê)." Nhưng những chiến thắng của Quang Trung năm 1789 đã làm cho nhiều người có tư tưởng chống Tây Sơn khiếp đảm. Do đó, Nguyễn Du bi quan, chán nản."
"Tuy vậy, đến khi ông trở về quê nhà, dưới chân núi Hồng Lĩnh, chí phục quốcvẫn chưa nguôi. Thế là, theo Gia phả, ông toan vào Gia Định giúp Nguyễn Ánh."
"Và sau này, cũng theo Gia phả thì: Mùa hạ, tháng 6 năm Nhâm Tuất (1802), vua Cao Hoàng (tức Gia Long) đi ra Nghệ An. Ông (Nguyễn Du) đón xe yết kiến vua và được đem thủ hạ đi theo ra Bắc. Mùa thu tháng 8 năm ấy, ông được bổ tri huyện huyện Phù Dung. "Về điểm này, Đại Nam chính biên liệt truyện chép hơi khác: Đến khi có lệnh (Gia Long) gọi, không thể từ chối, ông bất đắc dĩ phải ra. Ở đây, chưa bàn Gia phảhay Liệt truyện chép đúng, nhưng cũng như một số nhà nho đương thời, thái độ của Nguyễn Du đối với nhà Nguyễn có khác hơn đối với Tây Sơn. Nghĩa là những cựu thần nhà Lê này vẫn có thể ra phò giúp mà lương tâm không cắn rứt."
"Nhưng tại sao Nguyễn Du được nhà Nguyễn tin dùng mà thái độ hình như là bất đắc chí. Sách Đại nam chính biên liệt truyện cho biết Đối với nhà vua thì ông chỉ giữ hết bổn phận, chứ không hay nói năng điều gì” khiến có khi bị nhà vua quở trách... "Qua những bài thơ trong Nam trung tạp ngâm, kể cả những bài thơ làm trong khi đi sứ, quanh quẩn chỉ bấy nhiêu ý: ca tụng lòng tiết nghĩa, mạt sát những người cầu phú quí công danh, nhớ nhà, nhớ thú săn bắn, muốn về yên nghĩ, cho đời là một cuộc bể dâu...Nghĩa là Nguyễn Du đã nhìn thấy những nỗi đau khổ của quần chúng bị áp bức, đã thấy được cái mục nát, tàn khốc trong triều đình nhà Nguyễn, cho nên ông đã gửi tâm sự vào hai câu thơ:
Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như."(9)
Và ý kiến của Nguyễn Lộc trong Từ điển văn học (bộ mới), xuất bản năm 2004:
"Có một điều lạ là Nguyễn Du từng chạy theo Lê Chiêu Thống, và như một số tài liệu nói, ông từng có ý định chống nhà Tây Sơn; nhưng trong các sáng tác của ông, những thái độ này rất mờ nhạt. Trong khi những người khác có hàng tập thơ khóc vua Lê thì ông chỉ ít nhiều rõ nét trong mỗi bài My trung mạn hứng (Cảm hứng trong tù) và đả kích nhà Tây Sơn, thì Nguyễn Du không có một bài nào đả kích. Với nhà Nguyễn, ông được trọng vọng, mà trong thơ ông có cái gì như chán chường nhà Nguyễn. Cũng giống như Thanh Hiên thi tập, trong Nam Trung tạp ngâm, chưa bao giờ Nguyễn Du nói rõ cái tâm sự thật của mình; rải rác đây đó, trong thơ chỉ thấy ông than thở cuộc đời là đáng buồn, đáng chán, là vô nghĩa, là bãi bể nương dâu.
Trong Bắc hành thi tập, nhà thơ có viết về Thăng Long (2 bài) để nói lên những đổi thay đáng buồn của một đế đô. Tuy bài thơ toát lên một tình cảm nhớ cổ, thương kim da diết, mông lung , nhưng khó có thể nói đây là bài thơ nhớ nhà Lê được. Còn ở Long thành cầm giả ca thì bài thơ không có tí gì gọi là thù địch với nhà Tây Sơn, mà trái lại, trong khi thương xót cho số phận của người ca nữ, nhà thơ lại có vẻ như ngậm ngùi cho sự sụp đổ của triều đại trên...Thái độ của ông như thế nào, thật hết sức khó hiểu. (tr. 1122)
Bởi còn đôi điều khác biệt trên, nên chỉ có thể tạm kết luận:
Nguyễn Du là một con người suy nghĩ nhiều về cuộc sống đương thời, có thái độ yêu ghét khá rõ trước cái tốt cái xấu, nhưng không sao thoát khỏi buồn phiền vì không giải thích nổi cuộc đời và không biết phải làm thế nào để thay đổi cuộc đời đó. (10)
---------------
Chú thích
1- Ghi theo Thơ chữ Hán Nguyễn Du, tr. 18.
2- Từ điển văn học (bộ mới) ghi: xuất thân từ giới bình dân. (tr.1120)
3- Thứ tự như sau: Nguyễn Trụ, Nguyễn Nễ (hơn Nguyễn Du 4 tuổi), Nguyễn Du, Nguyễn Ức (kém Nguyễn Du 2 tuổi) và Nguyễn Thị Niên. Năm 1775, người con đầu của bà Tần mất, mới 18 tuổi, năm sau chồng mất, hai cái tang liền làm cho bà đau buồn rồi lâm bệnh mất ngày 27 tháng 7 năm 1778, khi mới 39 tuổi (theo Thơ chữ Hán Nguyễn Du, tr 19 và Từ điển văn học(bộ mới), tr. 1120.)
4- Tập ấm: Tập có nghĩa truyền lại đời sau, ấm có nghĩa là nhờ ơn người trước để lại mà con cháu được phong tặng chức tước hoặc miễn cho một trách nhiệm nào đó.
5- Vợ Nguyễn Du, sách Ngữ văn 10 không ghi tên, chỉ cho biết là con gái Đoàn Nguyễn Thục, quê ở Quỳnh Côi, trấn Sơn Nam, nay thuộc tỉnh Thái Bình. Khi đến sống ở đây, vài tác giả như Phạm Thế ngũ (sách ghi bên dưới, tr. 349) cho biết Nguyễn Du có mưu chống lại Tây Sơn, nhưng việc không thành nên bỏ về Nghệ An. Nhưng theo Từ điển văn học, căn cứ vào những sáng tác viết vào khoảng thời gian này trong Thanh Hiên thi tập, thì hình như Nguyễn Du chủ yếu là trốn tránh để giữ mình, chứ không có âm mưu chống đối gì.
6- Ghi theo Ngữ văn 10 tập 2 (Nxb Giáo dục, 2008, tr.93). Còn Văn học 11 tập I (Nxb Giáo dục, 1981, tr 23), Từ điển Văn học (bộ mới, sách đã dẫn, tr.1120) và theo cách tính của website đều cho biết đó là ngày 16 tháng 9 năm 2008.
7- Phần tiểu sử Nguyễn Du dựa theo Từ điển văn học(bộ mới), Ngữ văn 10 tập 2, Thơ chữ Hán Nguyễn Du và Việt Nam văn học sử giản ước tân biên quyển 2 của Phạm Thế Ngũ. Và theo GS. Trương Chính thì một phần cuộc đời của Nguyễn Du được phân ra mấy giai đoạn như sau: Năm 1786 cho đến khoảng cuối năm 1795 đầu năm 1796, là giai đoạn "Mười năm gió bụi”. Năm 1796 cho đến năm 1802 là giai đoạn "Dưới chân núi Hồng”. Từ năm 1802 đến cuối năm 1804 là giai đoạn "Ra làm quan ở Bắc Hà”... (Thơ chữ Hán Nguyễn Du, tr. 15-16)
8- Lược theo Một vài đặc điểm về nội dung và nghệ thuật của thơ văn Nguyễn Du, Ngữ văn 10, tr. 95-96.
9- Lược theo bài Giới thiệu của Gs Trương Chính trong Thơ chữ Hán Nguyễn Du, tr. 29 - tr.48
10- Văn học 11, Nxb Giáo dục, 1981, tr.24.
----------
**
Phần II:
Luận vàTrích dẫn nội dung Truyện Kiều của Nguyễn Du
Dựa vào truyện văn xuôi Kim Vân Kiều của nhà văn Trung Hoa- Thanh Tâm Tài Nhân, Nguyễn Du đã đem thuyết "tài mệnh tương đố" (tài - mệnh đố kị nhau) làm luận đề và chuyển tải tác phẩm bằng thể thơ lục bát một cách tài hoa độc nhất vô nhị trong giai đoạn lịch sử lúc bấy giờ:
Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
Lạ gì bỉ sắc tư phong
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen,
Cảo thơm lần giở trước đèn
Phong tình cổ tục còn truyền sử xanh,
Rằng năm Gia Tĩnh triều Minh
Bốn phương phẳng lặng hai kinh vững vàng
...
Giới thiệu gia đình Vương viên ngoại và đặc tả hai chị em gái Kiều - Vân
Vào những năm Gia Tĩnh triều nhà Minh cận giữa thế kỷ 16, trong một gia đình viên ngoại họ Vương có 3 người con, Thuý Kiều, Thuý Vân và Vương Quan là cậu út.
Có nhà viên ngoại họ Vương
Gia tư nghĩ cũng thường thường bậc trung
Một trai con thứ rốt lòng
Vương Quan là chữ nối giòng nho gia
Đầu lòng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân.
Mai cốt cách, tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười.
Vân thì:
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.
...
Còn Kiều:
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
…
Kiều đi tảo mộ gặp Đạm Tiên
Vào tiết Thanh minh, ba chị em nhà họ Vương đưa nhau đi tảo mộ. Lúc ngang qua ngôi mộ Đạm Tiên- một "nấm đất bên đàng", Kiều cảm thấy bần thần khó tả và sau lời dẫn giải của Vương Quan, nàng đã dừng lại khóc thương và nỗi vương vấn "kiếp hồng nhan" của người con gái ”nổi danh tài sắc một thì” kia đã ùa nhập kín hồn. Vốn là người đa cảm và tinh tế nên Kiều cũng đã liên tưởng tới thân phận của mình và kiếp phận chung của người phụ nữ:
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung
Mối lương duyên cùng Kim Trọng
Thế là trong khoảnh khắc không gian ấy, Kiều đã gặp Kim Trọng- một chàng trai "hào hoa, phong nhã”, "vốn nhà trâm anh", lại là "đồng thân" với Vương Quan. Con người đang đứng trước mặt- đã từ lâu "trộm nhớ thầm yêu" nàng.
Phong tư tài mạo tót vời,
Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa
…
Với Vương Quan, trước vẫn là đồng thân.
Nước non cách mấy buồng thêu
Những là trộm dấu, thầm yêu, chốc mòng.
Tuy chưa kịp nói với nhau một lời nhưng sau cuộc gặp gỡ này thì:
Người quốc sắc, kẻ thiên tài,
Tình trong như đã, mặt ngoài còn e.
Tâm trạng Kiều sau lần gặp gỡ::
Một mình lặng ngắm bóng Nga,
Rộn đường gần với nỗi xa bời bời
Nàng lại nghĩ đến Đạm Tiên và tự vấn lòng mình:
Người mà đến thế thời thôi,
Đời phồn hoa cũng là đời bỏ đi
Người đâu gặp gỡ làm chi
Trăm năm biết có duyên gì hay không
Kim Trọng- sau phút ban đầu lưu lưu luyến ấy, chàng đã tương tư. Dường như mọi thú vui hàng ngày, người trai trẻ hào hoa này đã quên hết cả, chàng tìm cách chuyển đến ở gần nhà Kiều.
Rằng: "Từ ngẫu nhĩ gặp nhau
"Thầm trông trộm nhớ, bấy lâu đã chồn.
…
Sự rung cảm đầu đời của đôi trai tài, gái sắc đã dẫn họ đến với nhau bằng tình yêu chân thành. Chàng và nàng đã gặp nhau sau vài tuần trăng, Họ đã tỏ tình và trao cho nhau kỷ vật.
Rằng: "Trăm năm cũng từ đây,
"Của tin, gọi một chút này làm ghi”.
…
Bao lần Kim Trọng cũng muốn "vượt rào" nhưng Thuý Kiều là một người công dung ngôn hạnh, nàng đã hướng Kim Trọng:
…
Sóng tình dường đã xiêu xiêu
Xem trong âu yếm có phần lả lơi
…
"Gieo thoi, trước chẳng giữ giàng
"Để sau thêm thẹn cùng chàng bởi ai?
"Vội chi liễu ép hoa nài,
"Còn thân ắt lại đền bồi có khi!”
Thấy lời đoan chính dễ nghe,
Chàng càng thêm nể thêm vì mười phân.
Kiều bán mình chuộc cha
Thế rồi tai họa đã đột ngột ập đến Vương gia trong lúc người thiếu nữ còn đang thổn thức với mối tình đầu vừa chớm. Bọn sai nha đầu trâu, mặt ngựa đã đánh đập cha và em nàng một cách tàn nhẫn trong nỗi oan kêu trời không thấu:
Người nách thước, kẻ tay đao
Đầu trâu, mặt ngựa ào ào như sôi.
…
Một nhà hoảng hốt ngẩn ngơ
Tiếng oan dậy đất, án ngờ lòa mây.
…
Trước tình cảnh đau thương nghẹn ngào này, Kiều đành phải đi đến quyết định bán mình để chuộc cha, nhưng nàng không quên lời hẹn ước:
"Nợ tình chưa trả cho ai,
"Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan!”
Lời hẹn thề "Trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai" với Kim Trọng trước khi chàng về Liêu Dương để thọ tang chú. Thuý Kiều đã nhờ cậy Thuý Vân thay mình trả lời hẹn ước với Kim Trọng:
"Cậy em, em có chịu lời,
"Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
…
Trao duyên cho em xong, nàng cảm thấy xót thương cho thân phận của chính mình và đã ngất đi trên tay người thân:
"Trăm năm gởi lạy tình quân
"Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.
"Phận sao phận bạc như vôi
"Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng
"Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!
"Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”
Cạn lời hồn ngất máu say,
Một hơi lặng ngắt, đôi tay lạnh đồng.
Kiều rơi vào tay Mã Giám Sinh và Tú bà.
Mã Giám Sinh vốn là một tay phong tình thất vận đã cùng với Tú bà mở hàng "buôn hương bán phấn”, chuyên đi tìm mua gái tơ nhan sắc ở chốn xa về "lầu xanh".
Chẳng ngờ gã Mã Giám Sinh
Vẫn là một đứa phong tình đã quen
Quá chơi lại gặp hồi đen
…
Lầu xanh có mụ Tú bà
Làng chơi đã trở về già hết duyên
…
Dạo tìm khắp chợ thì quê
Giả danh hầu hạ, dạy nghề ăn chơi.
Được biết gia cảnh Thuý Kiều trong cơn hoạn nạn, đôi người này vui mừng xem như gặp của quí hiếm, nhất quyết mua về, lấy tiếng là làm vợ lẻ nhưng sau khi "… đóa trà mi/con ong đã tỏ đường đi lối về", thì Thuý Kiều đã bị Tú bà buộc đi tiếp khách. Nàng đã cự tuyệt và dùng dao tự quyên sinh nhưng không thành. Lúc bấy giờ mụ ta đành nhượng bộ rồi cho nàng ra ở lầu Ngưng Bích. Nơi đây, nỗi nhớ nhà, nhớ quê, nhớ cha mẹ… và nhất là nỗi nhớ mối tình đầu với Kim Trọng như trào dâng trong nàng qua từng giây, từng phút :
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai
Nỗi thương cha nhớ mẹ của Kiều:
Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ.
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm
Và nỗi buồn của của cô gái đang xuân nơi đất khách như tuôn chảy vào mênh mông vời vợi:
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ dàu dàu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
Kiều bị Sở Khanh lừa và nỗi đời trăng gió
Sống một mình giữa không gian mênh mông xa vắng đó, Thúy Kiều lại canh cánh một nỗi mong. Nàng ám ảnh sẽ được một bàn tay tế độ đến với nàng. Thế là Sở Khanh xuất hiện:
Một chàng vừa trạc thanh xuân
Hình dong chải chuốc áo khăn dịu dàng
Một gã có nét chải chuốt và dịu dàng của khăn áo này cũng khá văn vẻ hơi hám hào hiệp:
"Than ôi! sắc nước hương trời,
"Tiếc cho đâu bỗng lạc loài đến đây?
…
"Thuyền quyên ví biết anh hùng
"Ra tay tháo cũi, sổ lồng như chơi!”
Tâm trạng nàng lúc này như người đang sắp chết đuối vớ được cọc mà không còn bình tĩnh nhận ra lời lường gạt sáo rỗng của Sở Khanh. Kiều vội vàng trao thân cho Sở Khanh và cùng Sở Khanh bỏ trốn khỏi lầu Ngưng Bích. Nàng nào ngờ mình đã rơi vào lưới do Tú bà giăng sẵn để giữ nàng lại vĩnh viễn ở lầu xanh. Chưa kịp cao chạy xa bay thì Tú bà đến và lúc này nàng mới rõ bản chất con người Sở Khanh:
Bạc tình, nổi tiếng lầu xanh,
Một tay chôn biết mấy cành phù dung!
Đến nước này rồi, nàng đành phải chấp nhận tất cả. Nàng mặc cho số phận, mặc cho thể xác "đến phong trần, cũng phong trần như ai" và cảm thấy xót xa cho chính bản thân mình:
Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh,
Giật mình, mình lại thương mình xót xa
Cuộc tình với Thúc Sinh
Thúc Sinh trong tác phẩm này có lẽ là nhân vật có diễn biến tình cảm, tâm tư mang tính của con người trong "đời thường" nhất. Ông tuy đã có vợ là Hoạn Thư nhưng là người "Hoa khôi mộ tiếng Kiều nhi" từ lâu. Đây là một Thúc Sinh cụ thể, chứ không cách điệu nhiều như những nhân vật khác trong tác phẩm. Thế giới của ông là thế giới của đam mê và là một sứ giả phong lưu của tình dục. Chưa có một "đấng nam nhi" nào trong truyện Kiều có cách nhìn nâng tấm thân đầy nhục dục của Kiều lên tầm thẩm mỹ như ông:
Rõ màu trong ngọc trắng ngà!
Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên.
Nhờ vậy đã giúp Kiều ham sống và tự tin hơn về tương lai số phận của mình. Hai người đã đầu kề, má áp vui vẻ bên nhau cả một chuỗi dài trong truyện.
Khi hương sớm khi trà trưa,
Bàn vây điểm nước đường tơ họa đàn.
Để được điều này, Thúc Sinh đã đem một số tiền không nhỏ chuộc Thuý Kiều ra khỏi lầu xanh. Nhưng đã là gái lầu xanh nên Kiều không được Thúc Ông (cha đẻ của Thúc Sinh) thừa nhận. Nỗi bi đát của Kiều lúc này là nàng đã bị đưa lên quan xét xử:
Phong lôi nổi trận bời bời,
Nặng lòng e ấp tính bài phân chia.
Quyết ngay biện bạch một bề,
Dạy cho má phấn lại về lầu xanh!
Kiều cầu xin được làm lẻ mọn để được hưởng cuộc sống yên bình của một gia đình, thế mà kiếp nạn lại đổ xuống đời nàng tới tấp. Kiều chỉ biết ngậm đắng nuốt cay nhận cực hình chứ quyết không chịu quay về lầu xanh thêm lần nữa:
Dạy rằng: Cứ phép gia hình!
Ba cây chập lại một cành mẫu đơn.
Phận đành chi dám kêu oan,
Đào hoen quẹn má liễu tan tác mày.
Một sân lầm cát đã đầy,
Gương lờ nước thủy mai gầy vóc sương.
Thấy Thúc Sinh quá đau khổ khi nhìn Kiều vì mình mà bị hành hạ, vị quan kia đã cho Kiều làm một bài thơ bày tỏ nỗi niềm. Đọc thơ của Kiều, vị quan khen ngợi rồi khuyên Thúc Ông nên rộng lượng chấp nhận Kiều và cho đồ sính lễ cưới xin. Bố mẹ Thúc Sinh đã đồng ý khi biết chuyện Thuý Kiều tài sắc vẹn toàn, và nhất là tài làm thơ, ông đã phải thốt lên:
Thương vì hạnh trọng vì tài
Thúc ông thôi cũng dẹp lời phong ba
Kiều sa vào tay Hoạn Thư
Nhờ thế Kiều thoát kiếp thanh lâu. Nàng về chung sống với Thúc Sinh suốt bao năm ròng. Cuộc trăng gió mây mưa ngày mỗi thêm đậm nồng hương sắc, thế nhưng nàng không quên nhắc nhở chàng về với vợ cả Hoạn Thư. Sau chuyến chia tay về thăm nhà và lúc chàng quay trở lại thì Kiều đã rời xa vĩnh viễn tầm tay chàng. Bởi Thúc Sinh có ngờ đâu Hoạn Thư đã sai gia nhân đi tắt đường biển tìm bắt cóc Thuý Kiều. Nàng bị tưới thuốc mê, mang đi rồi phóng hỏa mái ấm của hai người:
Thuốc mê đâu đã tưới vào,
Mơ màng như giấc chiêm bao biết gì!
Vực ngay lên ngựa tức thì
Phòng đào, viện sách, bốn bề lửa dong.
Người trong nhà Thúc Ông lúc đó cứ ngỡ Kiều bị chết cháy sau trận hỏa hoạn. Còn Thúy Kiều đã trở thành thị tì nhà Hoạn Thư với cái tên mới là Hoa Nô. Lúc Thúc Sinh về nhà vợ cả thì oái oăm thay, lại đối mặt với người Hoa Nô Thuý Kiều… "phách lạc hồn xiêu", chàng nhận ra rằng đã mình mắc lừa vợ. Hoạn Thư buộc Kiều ra hầu hạ, đánh đàn cho bữa tiệc của vợ chồng. Ngồi so dây mà tâm trạng của Kiều ngân lên thống thiết:
Bốn dây như khóc như than
Khiến người trong tiệc cũng tan nát lòng
Cùng trong một tiếng tơ đồng
Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm
Nhìn nỗi thống khổ của Kiều , Hoạn Thư lại ép chồng tra khảo. Nàng đã viết tờ khai kể nỗi bi oán đầy tủi nhục của mình…, bây giờ chỉ mong được vào chùa tu cho thoát kiếp. Đọc tờ khai xong, Hoạn Thư đồng ý cho Hoa Nô vào Quan Âm các sau vườn để chép kinh. Thực ra, Hoạn Thư đã hành hạ Kiều đủ kiểu:
Trúc côn, ra sức đập vào,
Thịt nào chẳng nát, gan nào chẳng kinh!
…
Tiểu thư vội thét: "Con Hoa!
"Khuyên chàng chẳng cạn, thì ra có đòn!”
Ngòi bút Nguyễn Du đã lột tả về "đòn ghen" của Hoạn Thư "nhẹ như bấc, nặng như chì". và lối hành xử của bà cũng là lối thường tình hiện hữu của dân gian, "Rằng: tôi chút dạ đàn bà,/ ghen tuông thì cũng người ta thường tình!", "Chồng chung, chưa dễ ai chiều cho ai". Ông đã tạo một Hoạn Thư khéo léo phá vỡ dây tơ giữa Kiều và Thúc Sinh, làm Kiều ra đi một cách tự nguyện. Kiều trốn khỏi Quan Âm các và đã gặp Sư trưởng Giác Duyên. Sư đã cho Kiều sang ở tạm nhà Bạc Bà, một Phật tử thường hay lui tới chùa. Ai ngờ "Bạc Bà cùng với Tú Bà đồng môn", Bạc Bà đã khuyên Kiều lấy cháu mình là Bạc Hạnh. Qua tay Bạc Hạnh, một lần nữa Kiều lại rơi vào lầu xanh.
Từ Hải và Kiều
Ở lầu xanh, Kiều từng ngày bị dày vò với sống cuộc sống đầy bẩn thỉu và ô nhục. Một ngày đẹp trời, có một người khách ghé qua chơi, đó là Từ Hải, một anh hùng lừng danh thời đó:
Lần thâu gió mát trăng thanh,
Bỗng đâu có khách biên đình sang chơi
Râu hùm, hàm én, mày ngài,
Vai năm tấc rộng, lưng mười thước cao
Tài năng phi thường:
Đường đường một đấng anh hào,
Côn quyền hơn sức lược thao gồm tài..
Họ đã phải lòng nhau "Hai bên cùng liếc hai lòng cùng ưa" và Từ Hải đã chuộc Kiều về tư trang của chàng. Hai người sống với nhau được nửa năm, Từ Hải lại "động lòng bốn phương", muốn ra nơi biên thuỳ chinh chiến lập cơ đồ. Thuý Kiều bịn rịn xin theo nhưng Từ Hải khuyên nàng:
Nàng rằng:"phận gái chữ tòng"
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi"
Từ rằng:"tâm phúc tương tri
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình..."
Trong lúc Từ Hải trên đường chinh chiến, nàng ở nhà lại canh cánh nỗi quê: cha mẹ thì "da mồi tóc sương", còn em Thuý Vân chắc đang "tay bồng tay mang" vui duyên với Kim Trọng:
Đoái thương muôn dặm tử phần,
Hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa
Xót thay huyên cỗi, xuân già,
…
Còn ra thì đã da mồi, tóc sương.
Duyên em dầu nối chỉ hồng,
May ra khi đã tay bồng, tay mang.
Đến ngày Từ Hải mang khúc ca khải hoàn trở về cùng đoàn binh tướng tới đón Kiều làm lễ vu quy.:
Hai bên mười vị tướng quân,
Đặt gươm, cởi giáp, trước sân khấu đầu
…
Dựng cờ, nổi trống, lên đường,
Trúc tơ nối trước, kiệu vàng theo sau.
Thúy Kiều và ”ơn đền- oán trả”
Lúc "vàng son” cũng là lúc Thuý Kiều thao thức những ngày "bèo bọt", nàng kể hết mọi chuyện cho Từ Hải và muốn có sự "ân đền oán trả". Nào những Bạc Bà, Bạc Hạnh, Sở Khanh,... đều bị chịu gia hình, còn những ai giúp đỡ Kiều trong cơn hoạn nạn đều được nàng ban thưởng:
Với Thúc Sinh:
Nàng rằng: "Nghĩa trọng nghìn non,
”Lâm Tri người cũ, chàng còn nhớ không?
….
"Gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân,
"Tạ lòng dễ xứng báo ân gọi là,..”
Với Hoạn Thư:
"Thoắt trông nàng đã chào thưa
…
Truyền quân lệnh xuống, trướng tiền tha ngay”
Với Sư trưởng Giác Duyên:
"Nghìn vàng gọi chút lễ hương,
"Mà lòng Phiếu mẫu, mấy vàng cho cân”
Với Bạc Bà, Bạc Hạnh, Sở Khanh:
"Lệnh quân truyền xuống nội đao,
Thề sao, thì lại cứ sao gia hình”
Cái chết của Từ Hải và việc hành xử của Hồ Tôn Hiến đã đưa Kiều đến tự vẫn
Quan tổng đốc của triều đình lúc bấy giờ là Hồ Tôn Hiến, mang nhiệm vụ thu phục Từ Hải về với triều đình. Hồ Tôn Hiến đã bày mưu mua chuộc Thuý Kiều, ông đã đánh trúng vào ước muốn của nàng có một cuộc sống "an bình" chính đáng. Nàng thật dạ tin người và đã xiêu lòng nghe theo lời Hồ Tôn Hiến về thuyết phục Từ Hải ra hàng:
Trên vì nước dưới vì nhà,
Một là đắc hiếu hai là đắc trung.
Từ Hải đã phân vân:
Một tay gây dựng cơ đồ
Bấy lâu bể Sở sông Ngô tung hoành
Bó thân về với triều đình
Hàng thần lơ láo phận mình ra đâu
Áo xiêm ràng buộc lấy nhau
Vào luồng ra cúi công hầu mà chi
Sao bằng riêng một biên thùy
Sức này đã dễ làm gì được nhau
Chọc trời khuấy nước mặc dầu
Dọc ngang nào biết trên đầu có ai
Mặc dù trong lòng cương quyết không chịu luồn cúi triều đình, nhưng Từ Hải đã bị xiêu lòng bởi tài thuyết phục của Kiều. Chàng đã mắc mưu, lơ là việc phòng thủ. Hồ Tôn Hiến đã thừa cơ bao vây và Từ Hải đã chết đứng giữa trận mưa tên. Nhìn thấy chồng tử nạn, Thuý Kiều định lao tới đập đầu tự vẫn để được chết cùng chàng nhưng số mệnh đã giữ nàng ở lại. Thuý Kiều đã vô cùng ân hận và dằn vặt bản thân:
Mặt nào trông thấy nhau đây?
Thà liều sống thác một ngày với nhau!
Được đà, Hồ Tôn Hiến chẳng nương tay, ông ép Kiều phải "thị yến dưới màn", nàng đã than khóc và cầu xin được mang xác Từ Hải đi chôn cất. Hồ Tôn Hiến đã chấp nhận cho "cảo táng di hình bên sông". Sau đó, bắt nàng phải đánh đàn hầu rượu phục vụ ông, Kiều đã thể hiện nỗi lòng mình qua tiếng đàn:
Một cung gió thảm mưa sầu,
Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay!
Ve ngâm, vượn hú, nào tày,
Lọt tai Hồ cũng nhăn mày rơi châu.
Hôm sau, để tránh lời đàm tiếu về mình, Hồ Tôn Hiến đã ép gán ngay Kiều cho người Thổ quan ven sông. Trên con thuyền, Kiều nhớ tới lời của Đạm Tiên xưa đã nói với mình trong mộng "Sông Tiền đường sẽ hẹn hò về sau", và nàng đã quyết định nhảy xuống sông tự vẫn.
Nỗi Lòng và hành động của Kim Trọng sau biến cố gia đình Kiều
Kim Trọng, sau lần chia tay Kiều về lo tang cho chú, ngày chàng quay trở lại thì được biết gia đình Kiều gặp đại nạn, nàng đã đốt cháy tuổi xuân xanh, bán mình chuộc cha. Kim Trọng vô cùng đau đớn, chàng đã gào lên trong tức tưởi:
Ông bà càng nói càng đau,
Chàng càng nghe nói, càng dàu như dưa
Vật mình, vẫy gió, tuôn mưa
Dầm dề giọt ngọc, thẫn thờ hồn mai
Đau đòi đoạn, ngất đòi thôi
Tỉnh ra lại khóc, khóc rồi lại mê
Đối diện với một sự thật quá đỗi phủ phàng, lòng Kim Trọng càng xót xa hơn
Sinh càng trông thấy, càng thương
Gan càng tức tối, ruột càng xót xa.
Nhưng rồi, qua những lời khuyên can hết lẽ của mọi người trong nhà, chàng đã nghe và làm theo lời dặn của Kiều là đón cha mẹ nàng cùng Thuý Vân sang nhà mình để được chăm lo phụng dưỡng:
Vội về sửa chốn vườn hoa,
Rước mời viên ngoại ông bà cùng sang
Đồng thời vẫn đưa tin tìm kiếm nàng khắp nơi. Tuy "sâu duyên mới" nhưng chàng lại "càng dào tình xưa".
Đinh ninh mài lệ chép thư
…
Mênh mông nào biết bể trời nơi nao?
Sinh càng thảm thiết khát khao,
Như nung gan sắt, như bào lòng son
…
Có khi vắng vẻ thư phòng
Đốt lò hương, giở phím đồng ngày xưa…
Vương Quan và Kim Trọng lấy việc đèn sách lấp vào nỗi đau, kết quả hai người đều đỗ đạt và ra làm quan. Cùng lúc ấy được tin của Thuý Kiều đã trầm mình dưới sông Tiền Đường. Mọi người tức tốc đến nơi, và gặp sư Giác Duyên ở đó. Lúc này Thuý Kiều đã được Sư cứu mang về cưu mang. Họ được đưa về gặp Kiều, nhìn nhau, mỗi người tưởng như đang còn trong giấc chiêm bao:
Tưởng bây giờ, là bao giờ
Rõ rang mở mắt, còn ngờ chiêm bao!
Giọt châu thánh thót quẹo bào
Mừng mừng, tủi tủi, xiết bao sự tình
Ngày đoàn tụ
Sau ngót mười lăm năm lưu lạc, Thuý Kiều đã trở về, đã được gặp lại cha mẹ, gặp lại hai em, gặp lại người tình xưa mà cách đây không lâu, nàng ngỡ là không bao giờ còn gặp lại… Nàng bỗng dưng thấy xót xa và sợ hải khi ngoái lại quảng đời nổi trôi đầy bụi bặm của mình.
"Thiếp từ ngộ biến đến giờ,
"Ong qua, bướm lại, đã thừa xấu xa
"Bấy chầy, gió táp mưa sa,
"Mấy trăng cũng khuyết, mấy hoa cũng tàn.
Hiểu được nỗi đau của chị, Thuý Vân chính là người đầu tiên đã lên tiếng vun tình xưa nghĩa cũ cho chị. Nhưng trong đêm gặp lại ấy, Thuý Kiều đã tâm sự với Kim Trọng:
Thân tàn gạn đục khơi trong
Là nhờ quân tử khác lòng người ta
Nàng đã cúi mặt mà ghi nhận tấm lòng của Kim Trọng nhưng thấy mình chỉ còn là cánh hoa tàn không xứng đáng nữa nên trong lúc hàn huyên, nàng cố thuyết phục chàng sẽ cùng mình là một đôi tri kỉ:
Hai tình vẹn vẽ hòa hai
Chẳng trong chăn gối, cũng ngoài cầm thơ.
Khi chén rượu, khi cuộc cờ
Khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên.
Qua tác phẩm, ta thấy rất rõ nỗi lòng của tác giả. Nơi đây, Nguyễn Du đã gửi gắm toàn bộ thế giới quan của mình về xã hội phong kiến thời đó và ông đã chuyển tải một cách tài tình sự thể qua các câu thơ lấp lánh về cuộc đời lưu lạc của Thuý Kiều:
Ngẫm hay muôn sự tại trời
Trời kia đã bắt làm người có thân.
Bắt phong trần phải phong trần
Cho thanh cao mới được phần thanh cao
Có đâu thiên vị người nào
Chữ tài chữ mệnh, dồi dào cả hai,
Có tài mà cậy chi tài,
Chữ tài liền với chữ tai một vần.
(hết)
Qui Nhơn Ngày 21. 11. 2010
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật lại ngày 22.7.2015
theo nguyên bản của tác giả ngày 22.11.2010
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét